THỰC HIỆN CÔNG CHỨNG NHANH CHÓNG CHÍNH XÁC, AN TOÀN PHÁP LÝ, ĐÚNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

Thơ văn chọn lọc

Category: Thơ văn

 

THƠ VĂN CHỌN LỌC

 

 

CUỘC SỐNG

TÌNH YÊU

&

HẠNH PHÚC

 

 

2013

 

            

NGƯỜI QUÂN TỬ LẤY VĂN CHƯƠNG HỢP BẠN

LẤY BẠN TIẾN ĐẾN ĐỨC NHÂN

Những vần thơ

Có chút lãng mạn và trào phúng

Của bạn, của đời, của mình

Nó vô giá, cao quý hơn bất cứ vật phẩm nào

Thơ êm đềm mà mãnh liệt

Thầm kín và sâu sắc

Thơ sẽ giúp cho người yêu nó thêm yêu đời, yêu người, thêm giàu nghị lực và hạnh phúc

Thơ chính là một phần của linh hồn, cái phần mà ta ít để ý nhất; và vì thế, là quan trọng nhất

Thơ có nhiều đặc tính giống như tình yêu

Thơ là một tổ chức ngôn ngữ; một văn bản nghệ thuật có chất thơ.

 

“Đi giữa vườn nhân dạ ngẩn ngơ

Vì thương người lắm mới say thơ”.


 

ĐÃ GIÀ HAY CHƯA

Tưởng đâu như mới hôm qua

Chỉ trong chớp mắt cái già đến ngay

Đêm nằm giấc ngủ không say

Chập chờn tiếng vạc sương bay ngang trời

Tóc không giấu nổi tuổi đời

Thay màu đen trắng, đen rồi trắng đen.

Thế nào là trẻ hỡi em?

Vợ trêu: Anh vẫn còn duyên lắm mà!

Đi làm quên kính ở nhà

Ra vào ngơ ngẩn: thế là ngồi chơi

Tuổi này vui lắm người ơi

Chớ trêu những mắt với môi đưa tình

Ra đường chẳng thấy ai xinh

Đến nhìn hoa hậu bực mình thì thôi

Nói dai mà lại lắm lời

Khi nào cũng nhắc cái thời đã qua…

Ấy là bàn chuyện người ta

Ngẫm mình xem thử đã già hay chưa?

    VẪN ĐI

Bao năm trấn ải quan trường

Nay về với chốn đời thường mần dân

Từ đầy tớ, thành chủ nhân

Hiểu thêm ông chủ - nhân dân nghĩ gì

Cuộc đời sôi động cứ đi

Ta làm giọt nước li ti giữa dòng.

 

Đừng bao giờ trách anh

Đi nhiều trong đời thế

Đừng bao giờ giận anh

Rằng đa mưu túc kế

Không !

Anh vẫn đi trong đời

Vẫn có mình em thôi !

Trong tìm Chân – Thiện – Mỹ

Anh ráng sức làm Người.

 

VẪN CƯỜI

Trò đời pha trộn buồn vui

Riêng tôi chỉ có lấy cười làm duyên

Mỏi chân, chồn gối bon chen

Với thời gian cũng như huyền thoại thôi

Gặp nơi ấm chỗ thì ngồi

Thấy đâu ngược gió, thuyền xuôi trở về!

 

Tại sao cứ phải sầu bi

Tam khoang, tứ đốm cười khì là hơn

Thước nào đo được dại khôn?

Cười cho lên tiếng, tâm hồn thảnh thơi

Sống sao xứng đạo làm người

Bỏ mồi danh lợi, tiếng cười vang xa…

 

“Không chỉ biết mình, phần thưởng chia đôi

Thành tích thuộc về mọi người, khó khăn gánh chịu

Việc chung, việc riêng suốt đời bận bịu

Và nụ cười đôn hậu mãi trên môi”.


 

 

ĐÔI KHI

Đôi khi chỉ vì một ánh mắt em trao,

ta thức khuya hơn và bỗng hóa ngẩn ngơ,

với những vần thơ dở dang không đầu cuối…

Đôi khi chỉ vì một giọt nước mắt em rơi,

ta cuống cuồng lục tìm trong ký ức những nét ngọt ngào,

mong nhẹ nhàng làm với bớt nỗi buồn cho mắt em lại trong veo…

Đôi khi chỉ vì một áng mây mải rong chơi,

quên che mặt trời cho em bớt nắng,

ta bồi hồi trước đôi má em ửng hồng…

Và bất chợt ta nhận ra rằng:

Tất cả những đôi khi ấy kết thành một nhịp cầu êm ả nối ta và em.

Em cầm tay ta bước vào cuộc sống,

để thấy mọi điều bỗng hóa giản đơn;

Ta ngỡ ngàng trước những điều bình thường ta vẫn bỏ quên

bỗng trở nên đáng yêu đến lạ kỳ…

Đôi khi… Cuộc đời có rất nhiều cái đôi khi như thế.

Đôi khi em không vui ta bỗng thấy mình hóa trẻ thơ,

tựa thằng bé theo em đòi buồn như đòi kẹo.

Đôi khi lại ngạc nhiên với cái Tôi người lớn, ngồi thẫn thờ suy ngẫm…

Ừ thì cuộc đời vốn rất nhiều Đôi khi như thế!

VIẾT CHO ĐỜI

Thường thì trong cuộc sống và làm việc của các doanh nhân, các nhà quản lý… mỗi ngày phải tiếp xúc với một khối lượng công việc không nhỏ, từ nhiệm sở đến ngoài xã hội và gia đình; Tiếp nhận không biết bao nhiêu nguồn thông tin, bao nhiêu cú điện thoại, bao nhiêu đơn thư; giải quyết, xử lý bao nhiêu tình huống, bao nhiêu mối quan hệ công việc với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, khách hàng, đối tác và cả bạn bè thân thiết… Vậy mà, trong cái căng thẳng, xô bồ của hàng núi công việc ấy, vẫn còn người có thể dành thời gian để làm thơ, viết văn, sáng tác, nghiên cứu nghệ thuật và làm công việc của người nghệ sĩ mặc dù chỉ là “tay ngang”. Trong điều kiện quá hẹp hòi về thời gian như vậy, có lẽ tất cả những việc làm đó là một sự thư giãn để tích lũy năng lực cho công việc chính mà thôi. Bởi vì hai điều đối lập nhau ấy: Một bên là hoạt động thực tế trong xã hội hiện tại; một bên là đắm mình vào cõi riêng, tìm tạc quá khứ… Mâu thuẫn đấy mà vẫn song song tồn tại trong một con người! Phải chăng đó cũng là một quy luật, giống như nhịp đập của trái tim: bóp rồi lại nghỉ. Sự sôi nổi nhập thế và trầm lắng riêng tư là những nhịp sống tuần hoàn, cái này chuẩn bị và là cơ sở cho cái kia, cùng nhau tồn tại.

Đối với người có tâm hồn và linh cảm mạnh mẽ, trong sáng, cao thượng, có thể sáng tác chỉ là một thoáng ngẫu hứng, một phút phiêu bồng, một cách thư giãn… chứ không phải là nỗi niềm đam mê nghiệt ngã thì tác phẩm thường có thiện chí nghiêng về điều hiền, lẽ thiện. Tâm trạng khi sáng tác là tâm trạng hiến dâng, không so đo hơn thiệt và không đi tìm “độc tố” nên tác phẩm thường mang sắc thái tự nhiên của cuộc sống. Và, thường có chung một nguyên tắc: Cuộc sống là hình ảnh của chính mình qua mặt gương. Hãy vui lên thì cuộc sống sẽ vui tươi. Nó gần giống, gần đúng rằng thơ sao, văn sao thì người vậy!

Có một điều nhớ, dù tâm linh mạnh mẽ đến mấy, nhưng là “tay ngang” thì cũng đừng quá sa đà vào cõi văn chương, đó chỉ là một sự thư giãn, chỉ là môt chất xúc tác để họ yêu đời và say mê công việc hơn. Còn tác phẩm chính lại là tương lai, sự nghiệp mà nó được trực tiếp thể hiện ở trong những đứa con và gia đình: Có lẽ con ngoan là là niềm hạnh phúc lớn nhất của những người có tình yêu đúng nghĩa của từ này!

Vì lẽ đó, trong một khối lượng công việc rất bộn bề, thời gian rất hạn chế, nhiều người vẫn vừa làm, vừa học, vừa viết mà chẳng sợ cảm thấy cô đơn và rất cần những giờ phút ngồi một mình để viết. Dù có khi có, khi không cần viết hết sự thật; có thể dùng ý thơ, áng văn, lời nhà hiền triết… để góp phần làm đẹp thêm đời, làm êm ả lòng người và làm phong phú thêm cuộc sống. Cũng như người ta yêu thương không phải để được yêu lại, mà yêu để yêu đời hơn và yêu mình hơn vậy!

Trong vấn đề Tình Yêu – đây là lĩnh vực có tự ngàn đời. Không ai có thể nói hết được về chủ đề này; không thể ca ngợi tình yêu một cách thường tình như người ta vẫn nghĩ là đủ, bởi lẽ tình yêu có giá trị thiêng liêng như một tôn giáo. Mà hơn thế, tôn giáo này ai ai cũng ngưỡng mộ!

Tình yêu có ở tất cả mọi thời đại, mọi dân tộc, ở trong tất cả mỗi con người. Nhưng tình yêu không phải bao giờ cũng suôn sẻ. Nếu tất cả đều suôn sẻ thì trên thế gian này sẽ chẳng có thơ, chẳng có nhạc… và thật là đơn điệu… Cũng không quá đáng khi có người nói: “Yêu vợ mà không yêu như một người tình thì tình yêu đó thiếu hẳn chất men; yêu người tình mà không yêu như yêu vợ thì tình yêu đó sẽ chẳng sâu sắc”. Đó phải chăng cũng là một đề tài trong tình yêu?

“Tình yêu là một trong những tình cảm trong trắng và quý giá nhất, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người trở thành người tốt và thông minh, làm việc và học tập đạt kết quả xuất sắc hơn”.


 

TÌNH YÊU VÀ HẠNH PHÚC

Trong cuộc đời của mỗi người, tuổi trẻ - thời thanh niên vẫn được coi là đẹp nhất. Bời vì trong độ tuổi đó, mỗi con người có thể làm được bao nhiêu chuyện lớn, thực hiện được những dự định, ước mơ, hoài bão của mình. Thanh niên, lứa tuổi và thời gian hội tụ đầy đủ hơn cả những yếu tố cần có để thực hiện được mục tiêu cuộc sống: Sức lực, trí lực và nghị lực. Tuổi thanh niên luôn nảy nở những tình yêu đẹp, nó trở thành chất men kích thích tuổi trẻ sống đẹp hơn, làm việc hiệu quả hơn. Thông thường, ở tuổi thanh niên, ai cũng trải qua những tình cảm, tình yêu nằm ở hai cặp phạm trù cảm tính và lý tính. Nhiều khi, họ chỉ cảm nhau về hình thức, về đức tính, về phong cách sống, thậm chí là về một cái tài, một cái khiếu gì đó… Thế rồi từ mến nhau, quý trọng nhau, tôn thờ nhau… mà đi đến tình cảm – tình yêu chín muồi. Biết bao người đã xây đắp nên tình yêu đẹp đáng trân trọng, khi hai người biết xác định được rõ tình yêu đích thực, trao gửi đúng lúc, đúng chỗ và dựa trên sự tôn trọng tình cảm, hiểu biết nhau. Tình yêu có bền vững hay không phụ thuộc vào “độ chín” của tình cảm, sự hiểu biết kỹ càng và cảm thông lẫn nhau. Nó phản ánh sự chín chắn trong việc chọn bạn tình để hướng tới cuộc sống bền vững trong tương lai. Có thể gọi đó là tình yêu đích thực, tích cực, nâng con người tới sự hoàn thiện nhân cách đạo đức, quan niệm sống, hướng về cái Chân – Thiện – Mỹ... Và chính nó sẽ có tác dụng trở lại, bồi bổ tâm hồn, chắp cánh cho tuổi trẻ vươn tới, bay cao, bay xa trong cuộc sống và công việc.

Tình yêu của tuổi trẻ cũng có sự biến đổi theo từng thời kỳ lịch sử, chịu ảnh hưởng không nhỏ của lối sống, phong cách, quan niệm về tình yêu theo xu thế thời đại. Thực tế cuộc sống cho thấy, qua các phương tiện thông tin đại chúng thời mở cửa, lớp trẻ tiếp cận “yêu là gì” sơm hơn trước rất nhiều. Những năm qua, một số loại văn hóa phẩm độc hại (đọc, nghe, nhìn) tác động, đánh thức sinh lý của lớp trẻ quá sớm dễ đẩy con người đến một quan niệm sai lầm: Tình yêu và tình dục là một! Trước tình hình đó, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội là phải giáo dục, định hướng cho lớp trẻ có được nhận thức đúng đắn về tình yêu và hạnh phúc. Không cấm đoán, ép buộc nhưng phải có quản lý chặt chẽ, không để lớp trẻ tự do quá trớn, không để lối sống du nhập không phù hợp với thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo đức Việt Nam, tự do gây tác động xấu đến thanh niên; cần phải gần gũi, giúp đỡ tuổi trẻ biết “gạn đục khơi trong”, tìm thấy những tình yêu đẹp và có được tình yêu trong sáng.

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, cuộc sống đa dạng và phong phú hơn, đôi lúc xuất hiện những cách đánh giá lẫn lộn về các nấc thang giá trị xã hội, giá trị đạo đức… Do đó, nếu không có một quan niệm đúng đắn và vững vàng để làm kim chỉ nam cho cuộc sống và kiên trì theo đuổi nó (mặc phong ba bão táp và cám dỗ trong đời) thì không thể nào đạt được sự an vui hạnh phúc, mà tất yếu sẽ thấy đời sống là giả dối, trở nên bi quan hay sống dối mình, dối người cho đến suốt cuộc đời.

Về quan điểm hạnh phúc và cách tìm hạnh phúc trong cuộc sống, mỗi người có một cách riêng, nhiều khi đối lập với nhau hoàn toàn. Người thì cho rằng chỉ cần có vật chất là đủ và họ tìm mọi cách để có được của cải vật chất, để xây nhà, sắm xe, ăn ngon mặc đẹp, sống phè phỡn bất kể hoàn cảnh xung quanh của xã hội và ngay cả của gia đình mình… Lại có người cho rằng sống ở đời chỉ cần có tấm lòng thanh sạch, lấy tình nghĩa để đối đãi với mọi người, có kiến thức và tâm hồn phong phú thì cuộc sống sẽ an vui. Với họ, hạnh phúc không đồng nghĩa với vật chất… Một số người lại có biểu hiện “thèm thuồng” lối sống của xã hội tư bản? Thật ra, trong thế giới tư bản, con người không thể có an vui trong cuộc sống, cho dù vật chất của họ có thể phong phú hơn… Vậy thì cách sống nào là đúng, quan điểm hạnh phúc nào là đúng?

Người ta có thể đạt được hạnh phúc bằng một cuộc sống xứng đáng, tức là không ngừng đấu tranh cho cái tốt:

-         Sống xứng đáng là sống bằng lao động chân tay hay trí óc (hoặc cả hai) để nuôi sống mình và gia đình, không sống bám vào người khác, không sống xa hoa, phè phỡn trên mồ hôi, nước mắt của người khác; và có dư tiền của thì dùng nó vào những việc ích mình, lợi người.

-         Không ngừng học tập để hiểu biết thế giới quanh mình, để có cái nhìn khoa học về mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội… và để vận dụng nó, cải tạo nó nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người. Luôn luôn trau dồi nghề nghiệp của mình để hiệu quả công việc ngày càng tốt hơn.

-         Biết dứt bỏ hay hạn chế đến mức tối thiểu những ham muốn dễ dãi như: rượu, thuốc lá, tiêu xài hoang phí, đua đòi, chưng diện xa xỉ… Biết trân trọng những tình cảm tốt như tình cảm gia đình, bạn bè, lối xóm… Biết thưởng thức thiên nhiên và nghệ thuật.

-         Sống làm chủ bản thân mình, sống thuận với hoàn cảnh hiện hữu là biết chấp nhận hoàn cảnh sống thực tại dù có những lúc buồn, vui, sướng, khổ nhưng vẫn luôn phấn đấu để tiến lên phía trước, cải thiện hoàn cảnh ngày càng phù hợp với mong muốn của mình.

-         Biết nhận thấy những khuyết điểm của mình để quyết tâm khắc phục: Không ai không có khuyết điểm, còn sống thì còn có khuyết điểm, nhưng không phải vì thế mà cứ giữ mãi những khuyết điểm của mình. Phải biết luôn tự nhận xét về khuyết điểm của mình và tự cố gắng sửa đổi để tiến dần tới chỗ hoàn thiện bản thân, đó là điều kiện quan trọng để có được hạnh phúc.

-         Rèn luyện và giữ gìn sức khỏe cũng là việc rất cần thiết và phải luôn thực hiện vì không có sức khỏe thì không làm được việc gì, kể cả những việc rất nhỏ.

-         Biết sử dụng đồng tiền đúng chỗ, không hoang phí nhưng cũng không keo kiệt. Nên có lòng thương người, lúc người khác cần giúp đỡ thì phải giúp đỡ tận tình.

-         Biết giữ gìn hình thức bên ngoài tươm tất. Không cần diêm dúa, đỏm dáng, cầu kỳ nhưng cần có hình thức bên ngoài nghiêm chỉnh và sạch sẽ. Có người cho rằng chỉ cần có tấm lòng chân thành, tâm hồn sâu sắc và phong phú, còn bề ngoài lôi thôi, lếch thếch sao cũng được… đó là điều không nên.

-         Biết xây dựng cơ sở gia đình vững vàng, hạnh phúc với lối sống giản dị, có văn hóa. Sống có nghĩa tình và biết cảm thông, chăm lo, hiểu tâm lý người khác và biết cách ăn ở để tạo cho gia đình được đầm ấm, vui tươi… Đòi hỏi mỗi người đều phải có “trí thức” bao gồm học vấn, tri thức và đạo đức. Trong đạo đức, không thể không nhắc đến phép lịch sự, đặc biệt là lịch sự trong giao tiếp.

“Biết nghe” là một vấn đề đáng quan tâm trong nghệ thuật giao tiếp. Bời vì biết nghe là một phẩm chất đặc biệt có ích, không thể hiện sự hờ hững, thiếu tôn trọng người đối thoại.

Trong đối thoại, người có nghệ thuật chiếm tình cảm của người nghe là người biết sử dụng đúng chỗ ba từ “cảm ơn”, “xin lỗi” hay “không dám”! Chính ba từ ấy sẽ nâng cao giá trị của người phát ngôn. Xưng hô cho đúng ngôn ngữ và tập quán của dân tộc là thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau (cần chú ý: Nhân xưng đại danh từ của ta là khá phong phú về ngôi thứ… ). Có người cho rằng đơn giản như Tây vậy tiện? Tiện đâu không thấy, nhưng trước hết đã bị người đối diện đánh giá là thiếu tôn trọng nhau!

Về chào hỏi, phép xã giao tối thiểu của người Việt Nam là phải chào người lớn tuổi trước, phái nam chào phái nữ trước, nhân viên phải chào thủ trưởng trước (cấp dưới phải chào cấp trên) và khi vào nơi nào, mình cũng phải chào người có mặt ở đó trước. Cũng như vậy, lúc ra đi nhớ phải chào tạm biệt người ở lại.

Bắt tay là một cử chỉ xã giao, lịch sự đã diễn ra khá quen thuộc trong xã hội. Nhưng cũng có một số “luật lệ” mà các bậc tiền bối đã lưu ý lớp hậu sinh: Phải biết “kìm hãm” bớt nhiệt tình, và chờ người lớn hơn mình đưa tay ra trước; phụ nữ phải “tự nguyện” thực hiện cử chỉ này trước nam giới; thủ trưởng sẽ chìa tay cho nhân viên… Và không nên lúc nào cũng nắm rồi “siết hết ga” để chứng tỏ tình cảm nồng hậu hoặc lắc lia lịa bàn tay, giữ chặt lâu hơn mức cần thiết. Nên hết sức tránh lơ đãng, nhìn sang nơi khác khi bắt tay hoặc chìa tay qua bàn, nếu không sẽ làm cho cử chỉ lịch sự trở nên phản tác dụng.

Để trở thành một con người xứng đáng và đạt được hạnh phúc đích thực đòi hỏi rất nhiều khía cạnh phải phấn đấu. Nếu chỉ gặp một bước khó khăn, trắc

trở hay sự cám dỗ của cái ác, cái xấu mà mà buông xuôi thì chỉ có đi thụt lùi, làm sao có ngày vui vẻ được. Hạnh phúc nằm ở cuối con đường phấn đấu và ở cả trên mỗi chặng đường phấn đấu.

 Mong sao mọi người, tất cả những ai đã làm tốt những điều này đều có cuộc sống tràn đầy hạnh phúc như C. Mác và L. Bettoven đã nói: “Người nào đem lại hạnh phúc cho nhiều người nhất thì người đó hạnh phúc nhất” và “không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem lại hạnh phúc cho nhiều người”.


 

 

DẶN CON TRONG NGÀY CƯỚI

 “Trai lớn mẹ cha dựng vợ

Gái khôn đến tuổi gả chồng

Việc đời cũng như thời tiết

Bốn mùa xuân hạ thu đông.

Các con sau ngày đám cưới

Sẽ thành chàng rể, nàng dâu

Đạo người cha ông đã dạy

Vẹn tròn không thể dễ đâu.

Cha mong các con sống tốt

Xứng danh rể thảo, dâu hiền

Hiếu kính ông bà cha mẹ

Giữ gìn gia đạo tổ tiên.

Cha mong các con hạnh phúc

Ấm êm trong đạo vợ chồng

Chẳng nề khó khăn gian khổ

Nghĩa tình trọn vẹn thủy chung.

Hãy gắng vun trồng cây phước

Mai sau thu được quả lành

Tài sản phù dù mây nước…

Cháu con là của để dành.”


 

 

MỪNG THƯỢNG THỌ

Đầu năm khai bút mừng Xuân

Đề thơ tặng mẹ ngàn lần kính yêu

Biết rằng có viết bao nhiêu

Cũng không hết được những điều nhớ ghi.

Mừng Thọ Mẹ “cổ lai hy”

Cháu con, họ mạc đề huề, sướng vui

Mừng Mẹ “Thượng thọ Bảy mươi”

Phúc đức gia tộc thêm người trường sinh.

Công ơn cha mẹ sinh thành

Chúng con tạc dạ, ghi lòng mẹ ơi

Dẫu đà khôn lớn cả rồi

Vẫn mong bên mẹ như hồi trẻ con…

Mẹ nghèo nuôi được mười con

Mười con nuôi mẹ? Mẹ còn khó khăn!

Mẹ cười – quen chịu gian nan

Chắt chiu, dạy dỗ các con nên người

Cho con lẽ sống ở đời

Lòng trong, mắt sáng, đức tài, thủy chung

Tận tình, nhân ái, bao dung

Anh em ruột thịt biết cùng thương nhau

 

 

Đói nghèo củ sắn, lá rau

Hạt cơm sẻ nửa, trước sau vẹn toàn

Trọng người hơn của mới ngoan

Vẹn tình nghĩa với xóm làng, quê hương…

Quê nghèo rơm rạ còn vương

Chiêm bao vẫn thấy con đường lá xoan

Vẳng nghe quan họ dịu dàng

Nhòe cay khói bếp vẽ ngàn hoa văn.

Mong về trước mẹ ăn năn

Năm mươi năm ấy nặng oằn đôi vai

Con xa hút tháng năm dài

Khôn nguôi khắc khoải bồi hồi nhớ quê

Xốn xang một sớm xuân về

Nghe như gió rét từ quê thổi vào

Quê nhà gần lại biết bao

Bảy mươi tuổi Mẹ - ngọt ngào tuổi con.

Nguyễn Sơn

Xuân Canh Thìn 2000.


 

 

DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH

Chân tôi thì bé vô cùng

Mà con đường mở muôn trùng dặm xa

Con đường người lính từng qua

Thịt xương gởi lại rừng già Trường Sơn

Rừng già nhưng lá vẫn non

Cho màu xanh vẫn cứ còn màu xanh

Ngụy trang áo lính quân hành

Đi qua hết cuộc chiến tranh bạc đầu

Những năm tôi biết gì đâu

Làm phân xanh, thả hoa dâu, ruộng nhà

Bàn chân bước lạc vườn cà

Con đường ấy đã mở ra nhọc nhằn

Con đường như sợi chỉ giăng

Bao lần bom giặc nhùng nhằng xác xơ

Vẫn chưa hề dứt bao giờ

Cộm lên mối nối: những gò mộ ai

Ở đâu thừa thãi đất đai

Dựng nhà người ở, trồng khoai lúa đầy

Ở đây! Vâng, chính ở đây

Thương rừng, người mở đường này mà đi

Chọn nghìn tiễn biệt chia ly

Lòng người tự nhủ thầm thì đêm đêm

Lòng con lúc ấy bỗng mềm

Bỗng dịu, bỗng nhẹ đẹp thêm lòng người

Rừng còn xanh, lá còn tươi

Chân người lính đã gặp nơi cần tìm.


 

BỐ EM LÀ BỘ ĐỘI TRƯỜNG SƠN

Hôm nay đi với bố “về nguồn”

Em lại hát “Bố là tất cả”…

Nghe em hát: Bố là tất cả

Giữa gió ngàn nắng đổ Trường Sơn.

Bố là bóng mát đời con,

Bố là bộ đội Trường Sơn năm nào.

Về nguồn với bố vui sao

Đây rồi kỷ niệm hồi nào bố ơi.

Chiến tranh đã kết thúc rồi

Bố con ngân lệ, lệ rơi tủi mừng.

Em vẫn hát: Bố là tất cả

Làm mẹ rồi em hiểu bố hơn.

Lời ca thánh thót véo von

Giữa rừng trầm mặc Trường Sơn mây chiều.

Bố ơi thương bố thật nhiều

Con yêu của bố thương nhiều bố nghe

Dẫu qua trăm suối, ngàn khe

Đến ngày thắng lợi vẫn về với con.

Em hát nữa: Bố là tất cả

Bố mãi là tất cả của con

Xưa đi vì nước vì non

Nay về cùng mẹ, cùng con xây đời

Nước non to đẹp hơn người

Phải không hả bố? Bố cười… Vì con.

Yến Sơn

 

TÊN ANH THÀNH BẤT TỬ

Cảm xúc khi thăm nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia

Đường 9 – Trường Sơn

 

Trên đỉnh Trường Sơn đọc văn bia bi tráng

“Ai đếm khăn tang, ai đong máu chiến trường”

Tổ quốc gọi âm vang hồn sông núi

Đâu có giặc là ta cứ đi

Tuổi trẻ Việt Nam sức mạnh diệu kỳ

Quyết xẻ dọc Trường Sơn giữ lời thề cứu nước

Chiến công lớn và hy sinh to lớn

Mất mát đau thương, máu nhuộm thắm chiến trường

Lớp lớp người đi, ngàn vạn tấm gương

Máu dũng sĩ kết tràng hoa chiến thắng

Để hôm nay Trường Sơn rực nắng

Lộng gió đại ngàn vươn tới tương lai.

Nhớ Trường Sơn xưa, nhớ những chàng trai

Sức Phù Đổng đạp bằng vách núi

Vượt đỉnh Trường Sơn với đôi chân không mỏi

 

 

Mang chí anh hùng, nặng nghĩa non sông.

Nay vượt Trường Sơn từ Tây sang Đông

Trên đường lớn thênh thang xe máy lạnh

Lòng thắt lại trước nấm mồ hiu quạnh

Của những con người chưa tìm được đích danh

Nằm đó ngàn đời mà tuổi vẫn còn xanh

Và tên anh đã hòa chung vào đất

Khi anh sống có tên riêng rất thật

Anh nằm đây bất tử một tên chung

Tổ quốc ghi công liệt sĩ anh hùng.


 

BÀI THƠ CHƯA VIẾT HẾT LỜI

Kỷ niệm chuyến về nguồn (16/7/2009-20/7/2009)

Bài thơ chưa viết hết lời

Trường Sơn mây quyện xanh trời khói lam,

Thắp lên ngàn vạn nén nhang

Để hương tỏa ngát dọc đường Trường Sơn.

Nhớ thương lớp lớp người con

Xả thân vì nước vì non trọn đời.

Về đây đồng chí ta ơi

Về đây hát giữa đất trời tự do

Noi gương đạo đức Bác Hồ

Về nguồn viết tiếp bài thơ ân tình.

Nhớ lời Bác dạy đinh ninh

Tổ quốc độc lập, hòa bình non sông

Về thăm Vịnh Mốc thành đồng

Địa đạo lũy thép chiến công lẫy lừng.

Ngã ba Đồng Lộc anh hùng

Mười cô gái một tấm lòng sắt son.

Khe Sanh, Đường Chín, Tà Cơn

Xác thù chồng chất trên đồi Đồng Tri

Thắng thù mở lối ta đi

Chưa tan hết giặc chưa về quê hương,

Dù thiêu cả dãy Trường Sơn

Dù khó nguy cũng không sờn lòng trai.

Dừng chân chiêm ngưỡng tượng đài

“Miền Nam trong trái tim tôi” trọn đời

Bài thơ nào viết hết lời

Uy linh vọng mãi đất trời Trường Sơn.

Ngọc Sơn


 

TRƯỜNG SƠN HUYỀN THOẠI

Kỷ niệm chuyến về nguồn thăm Trường Sơn 16/7/2009-20/7/2009

 

Bốn mươi năm, nay trở lại Trường Sơn

Ôi rừng xưa đã bao lần thay lá

Ơi những chàng trai, những người con gái

Nằm lại nơi đây mãi mãi không về.

Trường Sơn! Trường Sơn! Trường Sơn ơi!

Mỗi gốc cây, mỗi vách núi, lèn khe

Còn in dấu của ngàn ngày xưa ấy

Giữ trọn lời thề, vượt đỉnh Trường Sơn

Chiều hoàng hôn, chiều trên bến sông Son

Kỷ niệm bỗng ùa về trong ký ức

Đồng Lộc anh hùng, tọa độ lửa, túi bom

A Sầu, Khe Sanh, A Lưới, Tà Cơn…

Đại ngàn đây, Trường Sơn huyền thoại.

Đồng đội thân yêu, nơi anh nằm mãi mãi

Máu xương tan hóa thân mỗi cung đường.

Các chị, các anh sống quyết giữ thông đường

Và ngã xuống cho đường thêm rộng lớn!

Trước mộ bia trên nghĩa trang Đường Chín

Thắp một nén nhang ấm đất anh nằm.

Âm vang Trường Sơn lừng lẫy chiến công

Mãi mãi nhớ Binh đoàn Năm Năm Chín (*)

Mưa tháng bảy Trường Sơn rừng lưu luyến

Nỗi nhớ dâng đầy da diết khôn nguôi…

Đồng đội ơi! Đồng đội của chúng tôi

Nước mắt nhòe cay, tiếc thương, khắc khoải

Một thời hào hùng âm vang mãi mãi

Trường Sơn ơi! Ơi huyền thoại Trường Sơn.

Nguyễn Đình Môn


 

BẠN CHIẾN ĐẤU

Nghe tin bạn bị dỡ nhà!

Sao lạ thế? Làm sao yên lòng được?

Buổi chiều nay luôn tiện đi công việc

Vội ghé qua xem cớ sự thế nào.

Qủa đúng là ngôi nhà tạm trên ao

Kế bên dãy chuồng heo, của bạn bè giúp dập

Nào phải cao sang, lấn đường, lấn hẻm…

Mà khiêm nhường như trại lính, toàn tôn!

Trời nắng như nung, tôn dưới, tôn trên

Tôn dựng vách… cũng là tôn tận dụng!

Dùng đồ cũ tân trang, dựng trên nền ao cạn

Cả thảy chừng hơn bốn chục mét vuông

Trước cảnh trái ngang, lòng những chạnh thương

Sao thế vậy? Ai dỡ nhà của bạn?

Chính quyền của dân đâu? Khi thấy dân vận hạn

Phải thấu tình, đạt lý mới vẹn toàn?

Người chiến binh xưa, nay đã mỏi mòn

Bởi sức trẻ dồn cho thời chống Mỹ

Biết bao chiến công vẻ vang, dũng sĩ…

Làm lính đặc công giải phóng Sài Gòn

Đâu tính thiệt hơn, chỉ thương vợ, thương con

Nhà bị dỡ biết chỗ đâu ở nữa?

Chợt nhớ lại thuở còn trong đạn lửa

Họ đã từng bám trụ giữ nhà dân

Giặc càn phá triền miên, dám chấp nhận hy sinh

Quyết bám giữ từng nếp nhà cho mẹ…

Chỉ mấy gọng tầm vông, vài tấm tranh dựng tạm

Vẫn hiên ngang thắng bom chụp, pháo bầy…

Tấm tôn hôm nay tuy cũ, còn may

Chưa đến nỗi chịu trăm ngàn mảnh đạn!

Nghe xót xa khi bạn mình hoạn nạn

Hình ảnh hôm nào bỗng tái hiện, trớ trêu…

Nguyễn Chiến Binh

30/3/1996


 

 

RỪNG BẠCH ĐÀN TRONG ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG

(Được chuyển thể thành bài hát cùng tên điệu Bèo dạt mây trôi)

 

Rừng bạch đàn điệp trùng xanh xanh thẳm

Thầm thương người đã vất vả gian nan

Dãi nắng dầm sương, gió núi mưa ngàn

Lo cho đất và khổ công vì đất.

Vượt suối, băng rừng có anh đi trước

Những bờ bao, trục chính, vườn ươm…

Từng chút chi li vẫn phải tính kỹ hơn

Cho kế hoạch được giao hoàn thành toàn diện.

Nơi nào cũng thấy anh – những con người đáng mến

Lanh lợi, kiên trì, nắng đổ lửa vẫn đi

Mỗi gốc cây, từng công đoạn cần gì

Lại có mặt anh trên hiện trường rộn rã…

Vừa gặp nhau đã chia tay vội vã

Chưa trọn ý thành lời, đành hẹn lại ngày sau

Hẹn mùa về cùng gắng sức thi đua

Cho thành quả xứng công người, của đất.

Xin cám ơn những con người chân thật

Cần mẫn, quên mình để đất thắm màu xanh.

Nguyễn Sơn


 

 

DÒNG SÔNG NỖI NHỚ

Anh trở lại sông Cầu

Ơi dòng sông đã làm vơi nỗi nhớ

Giữa quê hương quan họ

Em gái thôn Đoài hát khúc dân ca

Dòng sông yêu thương, tha thiết mượt mà

Nước chảy đôi dòng, bên trong bên đục

Có phải sông Thương hay người thương nhất mực

Dào dạt sóng ngầm dẫu mặt nước lặng yên?

Soi bóng dòng sông lại nhớ về em

Dưới ánh trăng hai đứa cùng hò hẹn

Trăng ngả bóng lung linh hai chúng mình tiễn bạn…

Không nói được nên lời dù vẫn muốn nói nhiều hơn!

Lệ ứa hoen mi, trăng khuyết lại tròn

Trăng xẻ làm đôi, ai cho mình một nửa?

Anh ở cuối sông sóng trào thác đổ

Lời hát tặng người càng hiểu rõ lòng nhau.

Nguyễn Sơn

(Đã phổ nhạc theo điệu Buôn bấc buôn dầu,

Dân ca quan họ Bắc Ninh).

 

NGẢ BÓNG TRĂNG NGÀ

 

Trăng thanh gió mát đêm hè

Soi sao cho tỏ người về hỡi trăng

Buồn vui bởi tại chị Hằng

Người đi kẻ ở đành lòng được sao?

Hỏi trời, trời ở trên cao

Hỏi ai, ai biết khi nào ta vui

Chia tay lòng dạ bùi ngùi

Mắt ngân ngấn lệ bóng người đi xa

Người đi ngả bóng trăng ngà

Người về em cất lời ca tặng người.

Nguyễn Sơn

(Đã phổ nhạc theo điệu Nguyệt gác mái đình, Dân ca quan họ Bắc Ninh)


 

 

ĐẾN CAO BẰNG

 

Đến rừng Pác Bó dưới mưa rơi

Thăm thẳm hang sâu giữa lưng đồi

Dốc đứng, đường trơn… lòng không nản

Thấy cảnh nhớ Người dựng nước non.

 

Lần theo dòng suối đẹp thần tiên

Tường tận cội nguồn quả thiêng liêng

Nằm dưới chân hang đây Cốc Bó

Núi Mác in hình suối Lê Nin.

 

Đây rồi bàn đá bên bờ suối

Duyên dáng trúc xanh giữa đại ngàn

Nghe Khuổi Nặm reo lòng dào dạt

Ngàn năm giữ mãi tấm lòng vàng.

NS

  18/10/1996

 

THĂM LĂNG BÁC

Con lại về thăm Lăng

Nơi Bác Hồ nằm đó

Giữa mùa hè nắng đổ

Nghe lòng man mác buồn

Đến thăm căn nhà sàn

Ôi đơn sơ bé nhỏ

Đã chở che cuộc đời

Một siêu nhân giản dị.

Vẫn đượm hương bông huệ

Vẫn gối chăn Bác nằm

Và “một bồ công văn”

Dép cao su, nón mũ…

Đây cây bút chì đỏ

Bác chỉ đường con đi

Gian khổ có xá gì

Biết đi là chắc thắng.

Ôi tháng năm đầy nắng

Tình Bác bừng sáng hơn

Bác Hồ của chúng con

Bác mãi còn nguyên vẹn.

NS

Tháng 5/1991

TÌNH NGƯỜI QUAN HỌ

(Tặng các nghệ sĩ Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh)

Em là con gái Bắc Ninh

Bởi xinh nên đứng một mình cũng xinh

Ngàn năm quan họ quê mình

Càng nghe càng thấm, càng nhìn càng yêu

Áo the, khăn xếp, yếm điều

Nón ba tầm… với bấy nhiêu mặn nồng

Mình về có nhớ tôi không

Tôi về vẫn nhớ hàm răng mình cười

Lóng lánh là lóng lánh ơi

Mắt em như ánh sao trời bao quên!

Áo tứ thân hợp với em

Đẹp khăn mỏ quạ làm duyên hội mùa

Gặp em rồi, thật hay mơ?

Chia tay biết đến bao giờ gặp em

Đã rằng: Đến hẹn lại lên

Nhưng sao vẫn muốn còn duyên, đừng về…

Nửa đời, một nửa xa quê

Nghe câu quan họ trăm bề nhớ nhung

Xa nhau người nhớ tôi không?

Còn tôi tình để trong lòng Hội Lim

Thường nhau em có đi tìm

Hay là em để làm tin tháng ngày?

Quan họ càng ngấm càng say

Như tình em đã vơi đầy lòng anh…

Người quê ta đi xa mà vẫn nhớ

Câu quan họ thắm tình nào ai nỡ dám quên

Sống xa quê nhà anh đếm được bao xuân

Và năm tháng cứ trôi dần theo cuộc sống

Ví đời người là những chiều mưa nắng

Thì câu ca thêm tĩnh lặng những tâm hồn.

 (Đã phổ nhạc theo điệu Vào chùa & Chia rẽ đôi nơi, Dân ca quan họ Bắc Ninh)

NĐM


 

 

GẶP NHAU GIỮA RỪNG

 

Anh ra lại hiện trường

Bóng người thương thương quá

Gặp nhau thì vội vã

Không nói đặng chỉ cười!

 

Rừng bạch đàn còn dài

Tháng năm còn vất vả

Cây hẹn mùa đơm nụ

Em hẹn mùa ra hoa…

(Đã chuyển thể thành bài hát cùng tên theo điệu Mười nhớ, Dân ca quan họ Bắc Ninh)

NS.1991


 

 

BÁC SĨ CỦA ANH

Đêm đêm bên en anh ngủ bình yên

Xóa mờ nếp nhăn, vơi đi vất vả…

Vết thương thật nhiều mà như chẳng có

Em đấy ư? Bác sĩ của anh!

Dung dịch truyền êm ái

Từ từ thấm vào tim

Làm cho người khỏe lại

Anh gọi thầm tên em.

Em ơi có phải nước

Chỉ vô tư vậy thôi?

Nước làm tươi hoa lá

Em làm tươi cây đời.

Người thương gọi nước biển

Mang tình yêu mênh mông

Như đại dương vậy đó

Em ơi em biết không?

Ngọc Yến 

 

 

LÀM THƠ

Người ta xuất khẩu thành chương

Thấy cảnh vật đẹp vẫn thường làm thơ

Phải tâm hồn lắm mộng mơ

Hay vì người muốn làm thơ cho đời?

Phải chăng khẩu khiếu nhờ trời

Nhờ ơn dưỡng dục, nhờ đời dạy cho

Cuộc đời từng trải phong ba

Nằm gai, nếm mật đã qua một thời

Đã từng lên ngược, về xuôi…

Dọc ngang đây đó vẫn ngồi nhớ quê

Nhớ người thương, nhớ lũy tre

Nhớ dòng nước mát, nhớ hè phố đông…

Nên thơ xuất tự đáy lòng

Cầu mong trao gửi tâm tình đó thôi

Sống chưa trả hết nợ đời

Thì thơ ơi ráng giúp người được chăng?

NS


 

 

VỢ CHỒNG

Vợ chồng là nghĩa tào khang

Câu thơ càng đọc lòng càng đầy vơi

Muốn ghì chặt lấy em ơi

Người dưng bỗng hóa thành đôi lứa mình

Quyện nhau như bóng với hình

Thương nhau như cả chính mình thương thân

Theo nhau nào quản xa gần

Chung đời no đói, quên phần tây riêng

Thiêng liêng là chốn thiêng liêng

Khác dòng họ một tổ tiên phụng thờ

Ái ân mờ trắng suối mơ

Nếu không , chắc chẳng xe tơ chỉ hồng

Đêm hè cho chí chiều đông

Thẹn thùng dành trọn chút lòng cho nhau

Lá trầu vôi thắm hạt cau

Sinh con cái để về sau nối dòng

Đời người như những dòng sông

Lời thơ về đạo vợ chồng vẫn thơ.


 

 

SÓNG TÌNH

Mối tình như giấc chiêm bao

Nửa hư, nửa thực nói sao bây giờ!

 

Sài Gòn cuối thu với những cơn mưa

Ta đến tìm nhau, mưa lâm thâm mái phố

Thấm vào ai từng hạt thương, hạt nhớ

Có hạt nào ngọt lịm đến ngất ngây

 

Ta muốn cùng nhau hóa cánh chim bay

Được mãi ở bên không cần lời nói

Để Xuân – Hạ - Thu – Đông bốn mùa không mỏi

Để sóng tình dìu dặt mãi không thôi…


 

 

NGHĨA TÌNH QUAN HỌ

Phải là gạn chắt từ tim

Hay xưa tiếng mẹ còn truyền đến nay

Lời sao man mác nước mây

Để nghe cứ ngọt, cứ say lòng người!

“Lúng liếng là lúng liếng ơi

Miệng cười lúng liếng có đôi đồng tiền”

Xưa là em? Nay là em?

Lạ cho tiếng hát sức bền thế ư?

Mênh mông này tiếng hát ru

Thiết tha kìa tiếng đò đưa gọi đò

Dẫu chưa đến đó bao giờ

Vẫn nghe nước chảy lơ thơ sông Cầu

Hội Lim nghĩa nặng tình sâu

Lời ca quan họ qua cầu gió bay…

 

Người về từ đó đến nay

Mà câu giã bạn vẫn đầy lối đưa.


 

 

GIỮA HAI CHIỀU QUÊN – NHỚ

Vần thơ đầu em dành tặng anh

Là vần thơ em viết về nỗi nhớ

Tình cảm ngược xuôi, lời văn dang dở

Chẳng thể nào trọn nghĩa, đủ câu…

Ngày xưa ấy em nào biết đâu

Là tình yêu bắt đầu từ hai phía

Chỉ mình em thôi – cuộc tình thành vô nghĩa

Nghiêng bên này lại chống chếnh bên kia

Vì sao nào tỏa sáng cuối trời khuya

Như mắt em trong những đêm không ngủ?

Chợt thấy mình giống như vần thơ cũ

Chẳng thế nào cùng bước sánh đôi…

Bài thơ xưa em đã viết xong rồi

Nhưng không có bóng hình anh trong đó

Bởi em biết giữa hai chiều Quên – Nhớ

Chẳng thể nào có một lối đi chung…


 

 

GÁNH NƯỚC GIẾNG LÀNG

Cả làng chung một giếng trong

Đôi thùng sóng sánh, nước đong thật đầy

Nhà anh ăn nước giếng Tây

Nhà em giếng Ứng gánh đầy vại vơi…

 

Ngọt ngào như nước giếng khơi

Trắng trong như thể lòng tôi với nàng

Nhớ đêm múc nước giếng làng

Oằn vai gánh ánh trăng vàng về sân

Lung linh giếng nước trong ngần

Thời gian trôi, ánh trăng xuân vẫn còn

Tặng em, 22/7/1997

                 MY


 

 

Anh nhớ lắm giọng nói em và ánh mắt

Nhớ nụ cười, nhớ mái tóc em xanh

Nhớ bản tình ca ngày xưa em vẫn hát

Giờ một mình anh vẫn gọi tên em

Nhớ những nơi hai đứa mình cùng đến rồi đi

Nhớ những khoảnh khắc bên em trong chiều sâu ký ức

Nhớ những kỷ niệm vẫn còn nguyên trong tiềm thức

Đã xa rồi nhưng tình đâu có phôi pha

Anh chẳng bao giờ định nghĩa được tình yêu

Nhưng anh biết tình yêu trong anh là có thật

Như hiện hữu, như màu xanh nỗi nhớ

Những giây phút mơ màng, em vẫn ở bên anh.

    XO


 

 

NẾU…

Nếu một ngày không có tình yêu

Con sóng vỗ chẳng dạt dào đến thế

Gió sẽ ngừng thổi về muôn phía

Bước chân mình chỉ lặng lẽ phố đông

 

Nếu một ngày không còn nữa chờ mong

Cuộc đời sẽ bình yên theo năm tháng

Bao kỷ niệm trôi vào quên lãng

Nỗi niềm mình có bảng lảng trong thơ?

 

Nếu một ngày thôi những ước mơ

Màu trời cũng chẳng còn xanh thẳm nữa

Trái tim chỉ làm một điều muôn thuở

Nơi đi về của máu đỏ mà thôi…

Tân Hoa


 

 

MÃI YÊU EM

Trăm năm anh viết tặng người

Ngàn câu anh viết ngàn lời yêu thương

Triệu lần anh đếm giọt sương

Tỷ bông hồng đỏ tỏa hương khắp trời.

Yêu em, yêu đến trọn đời

Yêu em, yêu mãi một người là em.

Nụ cười xinh xắn thân quen

Cùng làn môi với tóc hương đượm đà

Yêu từng lời nói thiết tha

Yêu luôn giọng hát ngân nga ấm nồng

Nỗi lòng biển cả mênh mông

Trái tim thổn thức… khôn cùng em ơi!

Yêu người gửi gắm vào thơ

Em yêu, em đọc bao giờ yêu anh?!


 

 

NGÀY HAI ĐÊM

Trời cuối thu, chợt nắng êm dịu lạ

Rồi như sáng trăng vằng vặc

trăng suông…

Sự kiện thiên nhiên kỳ thú,

đêm buông…

Chỉ thoáng chốc

một ngày hai lần tối!

Người ta bảo: Trong tình yêu trai gái

Có màn đêm mới say đắm hết mình?

Nhờ nhật hoa

sắc trời tựa trăng thanh

Ôi tuyệt diệu

đẹp như là… em đấy!

Lòng bâng khuâng

mơ thấy ai đang đến

Mùi hương thơm

thi thoảng thấy: quen quen?

Giữa thanh thiên một khoảnh khắc dịu êm

Gợi cảm xúc đến vô cùng nỗi nhớ

Chắc giờ này ở nơi em cũng thế

Ngày hai đêm

Có thấy được… cùng nhau?

NGUYỄN MY


 

 

CÒN MÃI NHỚ THƯƠNG

Mỗi ngày một nỗi nhớ thương

Mỗi ngày một nỗi vấn vương trong lòng

Mỗi ngày ra ngóng vào trông

Mỗi ngày anh thấy trong lòng xốn xang

Để rồi quán vắng lang thang

Anh ngồi lần giở từng trang dòng đời

Lục tìm mọi lúc, mọi nơi

Tìm trong ký ức những người nhớ thương

Đi tìm trong cõi vô thường

Để rồi anh biết anh thương em nhiều

Để rồi nỗi nhớ bấy nhiêu…

Để cùng sánh bước đến điều ước mơ

Cùng em dệt mối tình thơ

Để anh hết đợi, hết chờ, hết mong…

 

Em bảo: Anh cút đi!

Sao anh không đứng lại

Em bảo: Anh đừng đợi!

Sao anh lại đi ngay?

Lời nói như gió bay

Cho mắt huyền rơi lệ

Sao mà anh ngốc thế

Không nhìn vào mắt em?

 

EM NHỚ

Đôi lúc hồn cảm thấy mông lung

Vì không biết trái tim anh có thật…

Nghe kỷ niệm tràn về gõ cửa

Mênh mông buồn, mênh mông nhớ anh ơi!

Em nhớ anh nhưng chẳng nói thành lời

Gom góp lại cho mưa nhiều thêm nữa

Nỗi nhớ theo em lớn dần thành ngọn lửa

Mãi bập bùng đốt cháy cả đêm thâu.

 

Nỗi nhớ đợi chờ làm đôi mắt thêm sâu

Em ước thời gian trôi nhanh càng nhanh nữa

Những giấc mơ luôn có anh ở giữa

Chan chứa tình, chan chứa yêu thương

Em giận mình sao cứ mãi vấn vương

Người dưng khác họ sao mà tha thiết thế

Chuyện tình yêu từ ngàn xưa khôn dễ

Đôi chúng mình âu cũng ở cái duyên…

DƯƠNG HẠ MY


 

 

CHUỒN CHUỒN MƯA

Anh có buồn khi chiều cứ qua mau

Lắng nhớ thương qua từng hơi thở

Đêm trở mình gối tay lên miền nhớ

Góc tim nào tha thiết gọi tên em.

Sẽ về đâu với nỗi nhớ chông chênh?

Mưa tạnh, mây tan, trời mênh mông nắng

Cơn sóng qua đi, biển kia bình lặng

Sao tay lại tìm tay, ánh mắt vẫn tìm nhau.


 

 

 

NHỚ

Một năm có một mùa đông

Còn em ôm trọn nỗi lòng cô đơn

Sông sâu núi thẳm cũng hờn

Vì nhan sắc ấy cô đơn một mình

Trời sinh ra chữ đa tình

Để cho ai phải một mình nhớ ai…


 

 

CHUYỆN XƯA

Vườn nay người khác đã vào

Khóm mai thay chỗ khóm đào ngày xưa

Em ngồi giặt áo giữa trưa

Đâu rồi môi hát vu vơ… một mình…

Em ngồi giặt áo lặng thinh

Vò cho sạch những vết tình còn vương

Giũ cho vơi bớt giọt buồn

Phơi cho khô hết nhớ thương xa vời

Đàn Kiều được mấy khúc vui

Thơ Kiều có vận vào đời em chăng?

Tình so chưa đủ ngũ âm

Áo chồng con đã nặng oằn dây phơi

Thơ xưa gió cuốn đi rồi

Vườn hồng nay đã có người khác qua

Tóc mai rũ bóng hiên nhà

Chuyện xua, dù nhắc cũng là chuyện xưa

Em ngồi giặt áo giữa trưa

Ráp bàn tay, vẫn vò chưa sạch lòng.


 

NGHĨA MẸ - CÔNG CHA

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ, kính cha

Cho tròn chứ Hiếu mới là đạo con”

Khai bút mừng xuân viết lời ca dâng mẹ

Mẹ của chúng con, bà của các cháu ngoan.

Hơn sáu mươi năm, mẹ tần tảo sớm hôm

Lặn lội, chắt chiu nuôi cho đàn con lớn.

Để đến hôm nay, giữa ngày xuân sung sướng

Con cháu dâng hoa Mừng Thọ Mẹ “sáu nhăm”.

Mừng tuổi mẹ yêu – Mừng Đảng quang vinh

Hai người mẹ - Một mẹ sinh, một dưỡng.

Mẹ của chúng con, đã nuôi con khuya sớm

Đảng của chúng ta – Người dẫn lối con đi

Tổ quốc Việt Nam – Người Mẹ diệu kỳ

Nơi ấp ủ trái tim của các con, của mẹ

Mẹ kính yêu ơi, từ khi con còn bé

Trên tay mẹ à ơi, con nghe mẹ ru hời…

Nhà mình bấy giờ đâu còn ở dưới xuôi

Cha mẹ đã theo ông lên Nhã Nam, làng Hả

(Bởi chạy loạn, ở nhờ, phải ra cổng sinh con)

Và đời con từ ấy lớn lên

Là niềm vui, nối tình yêu cha mẹ

Đã có lần con được nghe cha kể:

“Thời bấy giờ, có yêu trước cưới đâu”…

Khi vừa lớn lên là lúc mẹ làm dâu

Mẹ đã sinh con, năm tròn “hai mươi tuổi”…

Mẹ yêu quý các con, nhưng chẳng khi nào nói

Tất cả chỉ vì con, vì cả tám đứa con

Có ai hỏi đùa: Bà yêu đứa nào hơn?

Mẹ chỉ cười: Yêu đứa nào cũng thế!

Mắt mẹ cười lên lão rồi vẫn trẻ

Vẫn hồn nhiên, vẫn thanh thản, say mê.

Ai biết được mẹ mình, như bao mẹ miền quê

Vất vả gian nan, sớm chiều cực nhọc.

Cuộc sống dẫu nghèo, thương chồng nhất mực

Nhường nhịn, sẻ chia củ sắn, củ khoai

Cơm độn, canh rau, thiếu, đói vẫn vui

Chút mỡ để phần con: “Cho nó ăn đi học”

Thương yêu cha con, khi buồn mẹ khóc

“Không bao giờ được làm trái ý cha”

Cha bảo về quê, bỏ làng Hả, mẹ về…

Rồi cha lại muốn đi: Lên khai hoang Yên Thế…

Đường xá xa xôi, khó khăn vô kể

Mẹ vẫn ngậm lòng, chung thủy, lại đi…

Dốc đứng, suối sâu, ruộng thụt sá gì

“Theo Đảng gọi, vào rừng sâu làm giàu Tổ quốc”…

Cách nhìn của cha, thật ít ai hiểu được

Tuy không phải Đảng viên, nhưng rất “Mác – Lênin”!

Người am hiểu, tinh thông, nhận thấy bước đi lên

Chỉ đáng tiếc: không gặp thời thuận lợi!

Đến đây hơn một năm, cho con đi bộ đội

(Lúc bấy giờ được miễn hoãn ba năm).

Hoàn cảnh nhà mình đang lúc khó khăn

Nhưng Tổ quốc cần vẫn lên đường đánh giặc:

Đi cho bằng anh em, cho đá mềm chân cứng

Trọn việc nước, việc nhà, vẹn nghĩa mẹ công cha …

Dù tình nguyện đi nhưng vẫn khóc như mưa

Lúc chia tay, mẹ thương con, không khóc.

Ai biết được, nước mắt tràn vào ngực

Nơi trái tim này – Nơi sâu thẳm tình yêu.

Thuở ấy tiễn người đi, kể như chắc một điều:

Người đi sẽ “xả thân” vì nghĩa lớn!

Có người mẹ nào không thương con đứt ruột

Khi biết trước con mình: Đi chấp nhận hy sinh?

Mấy tháng ở thao trường, xanh màu áo tân binh

Mẹ thương con, đã giấu cha, cho con tiền

để tàu xe những khi về tranh thủ…

Biết nhà mình nghèo, tiền mua rau chưa đủ

Con lẽ nào dám nhận được, mẹ ơi!

Mẹ đã cho chúng con tất cả cuộc đời

Thiếu, khó chẳng hề chi, con chỉ thương cha mẹ.

Hết phép con đi, thắng sẽ về mẹ nhé

Theo đoàn quân, hướng tiền tuyến: Miền Nam

“Sáu tám” – Mậu Thân, con của mẹ lên đường

Và từ đấy bặt tin

Chỉ có vài bức thư viết trên đường  ra trận…

Bởi đất nước chiến tranh, nên mẹ cha chấp nhận

Hoài trông thư, mãi chẳng thấy con về

Cả nhà thương nhớ con, khắc khoải nỗi mong chờ

Thời gian lặng lẽ trôi: bảy, tám năm biền biệt…

Rồi nỗi buồn cũng qua đi, ai biết

Mẹ lại cho con trai kế lên đường

Thế là mẹ tôi đã có hai con

Đi bộ đội cùng vào Nam đánh Mỹ

Cha mẹ ở hậu phương lại phải thay lớp trẻ

Làm việc bằng hai theo tiếng gọi Bác Hồ.

Ở chiến trường xa con của mẹ đâu ngờ

Khó là vậy, các em con vẫn đủ đầy ăn học.

Thế mới hiểu nỗi khổ công, cực nhọc

Của cha mẹ nuôi con, mong con trẻ thành người.

Con gái vừa lớn lên, cha sắp gả chồng rồi

Vẫn còn mộng: Được về quê đi học

Chú Tư vào Công an, cũng thi xong đại học

Có vợ con, mẹ cho ở Thủ đô.

Còn ba đứa sau, muốn tạo dựng cơ đồ

Cho vào Sài Gòn với anh, vừa đi làm, vừa học.

Cả hai chú cùng được sang Tiệp Khắc,

Lao động, học nghề rồi về nước làm ăn

Cô Út cưng, đã êm ấm chồng con

Cùng sum họp ngay giữa thành phố Bác.

Thế mới biết không thể nào khác được:

Phải học tâp chuyên cần, có chí ắt thành công.

Nguồn di sản mẹ cha sẽ để lại cho con

Là trí tuệ, là tài năng, sự nghiệp,

Là tất cả những gì ta có được

Ở chính trong mình, ở trong mỗi đứa con…

Không phải bạc tiền mà là vạn lần hơn!

Có khi nào thêm mỗi tuổi già

Tóc mẹ lại xanh hơn?

Không hẳn thế, vì mẹ muốn các con

Chỉ thấy sướng vui, không thấy điều khổ hạnh.

Nhớ những lần viết thư,

Cha mẹ thường căn dặn

“Con cứ yên tâm, không phải lo cho mẹ ở nhà…”

Mẹ chịu đựng đắng cay, ôi lòng mẹ bao la

“Con sung sướng là mẹ cha vui sướng”.

Mẹ kính yêu ơi!

Có khi nào gặp ai không hiểu

Bảo rằng cha hay “ăn hiếp” mẹ con?

Bảo rằng cha hay “quát mắng” các con?

Và có cả những “trận đòn chí mạng”?

Xin hãy hiểu lòng cha

Bởi những ngày lận đận

Sự dồn nén của đời,

Sự bức xúc nhiễu nhương…

Cha của chúng con – Người đầy ắp tình thương

Đã dạy con nên người,

Và truyền cho chúng con lòng can đảm…

Cha kính yêu nơi suối vàng linh cảm

Có thấy con mình đang tiếp bước đi lên…

Con nhớ như in - Trời ơi! Ngày ấy chẳng thể quên:

Hai mươi ba tháng Mười, năm Tám mốt!

Cha của con bỗng ra đi đột ngột

Con chết lặng người, ôi sét đánh ngang tai!

Cha của con ơi! Chúng con mất cha rồi!

Con khóc mãi, khóc đến mờ hai mắt

Người điếng lặng nghe trong lòng đau quặn

Nỗi đau này, ai thấu hiểu lòng con?

Không có phước được bên cha

Lúc vĩnh biệt trần gian

Cha không nói, không một lời trăn trối

Thôi cha ơi, cha không cần phải nói

Chúng con hiểu cả rồi

Mẹ cũng hiểu lòng cha!

Hãy tha tội cho con, con không có bên cha

Để được khóc, để ôm cha – cha muôn vàn kính mến!

Hôm nay viết những dòng này

Sau mười bốn năm, cha mất

Sài Gòn đang vui lắm cha ơi

Mà sao nước mắt con giàn giụa

Hơn bất cứ khi nào

Nhớ thương cha đến thế

Cha của con, sao không sống đến giờ?

Phải cha đã nói từ lâu

Vì thương con, cha cho cả cơ đồ

Hồng Môn Hội Yến - Oanh Loan Phương Ngọc

Cảm ơn cha kính yêu đã cho con có được

Đức độ của cha

Phong cách của cha

Lương tâm cao quý của cha

Và cả trí tuệ, sự tài tình, sáng suốt của cha,…

Cho con được làm tiếp những gì chưa có

Để giúp mẹ con bớt buồn, bớt khổ

Để các em con, dù mất cha, nhưng còn có người anh.

Cha ơi, cha sống anh minh

Cha đi, cha để ân tình cho con

Trọn đời cha sống vì con

Cho con hạnh phúc, huy hoàng hôm nay

Ở nơi thành phố xa này,

Trong vui sướng vẫn nhớ ngày gian nan.

Nhà cao con ở khang trang

Nhờ cha đó, nhớ lều tranh giữa rừng…

Nước mắt rơi lúc trùng phùng

Khóc vì sung sướng, vui cùng mẹ con

“Sáu mươi nhăm” tuổi trường tồn

Mừng mẹ trường thọ, khỏe hơn, vui nhiều…

Từ nay mỗi sớm mỗi chiều

Mẹ vui, mẹ khỏe là điều con mong

Đảng tuyên dương “Mẹ anh hùng”

Chúng con dâng mẹ tấm lòng kính yêu

Mẹ ơi dù viết bao nhiêu

Cũng không hết được những điều nhớ ghi

Cha con đã sớm ra đi

Chỉ còn có mẹ, mẹ vì các con

Mẹ ráng vui, sống khỏe hơn

Bao nhiêu sung sướng dâng lên mẹ hiền

Các con dù ở mọi miền

Vẫn luôn bên mẹ, mẹ hiền có hay?

Mỗi thời đại, mỗi đổi thay,

Nhưng không thay được gốc này: quê hương

Đủ đầy, sung sướng, yêu thương

Cũng không quên được quê hương của mình

Ngày nay cuộc sống thanh bình

Ở đâu cũng đất nước mình mẹ ơi

Con nào cũng của mẹ tôi

Con là của mẹ, mẹ hiền của con

Mẹ con mình với nước non

Cùng hòa quyện lại, trường tồn vinh quang.

 

Tp. Hồ Chí Minh, Mùa xuân Ất Hợi 1995

Kính mừng thọ lần thứ 65 của Mẹ

Con trưởng Nguyễn Đình Môn


 

 

MẸ TÔI

(Ý thơ Lam Giang)

Ngày đi tóc mẹ còn xanh

Ngày về tóc mẹ đã thành muối tiêu

Sợi đen ít, sợi bạc nhiều

Có bao nhiêu sợi trắng chiều nhớ con…

Đời nghèo dưới mái rạ mòn…

Thương con giông bão đạn bom một thời

Con về đủ cả mẹ vui

Mấy mươi năm ấy ngậm ngùi thương cha

Mẹ đi là lúc con già

Các cháu lớn tựa như là tre măng

Mẹ đi về cõi vĩnh hằng

Trong con một khoảng trống bằng trời cao!

Tàn nhang cong quắt… mẹ về

Một làn hương thoảng gió se se lòng

Mẹ về kia, phải mẹ không?

Âm dương cách biệt con không thấy Người…

Cháu, con đầy đủ mẹ ơi!

Trà thơm, lễ mọn, con mời mẹ cha…

Nhớ Ngày giỗ Mẹ.

13, 23/10.AL


 

 

ĐỌC VÀ CẢM NHẬN THƠ LAM GIANG

“Nợ tình ráng trả bằng thơ

Nợ đời trả đến bao giờ hỡi em?”

Nhà thơ Lam Giang- Bạn tôi - Người lính Quân giải phóng đã vượt Trường Sơn vào chiến trường Sài Gòn - Gia Định chiến đấu kiên cường từ sau Mậu Thân 1968 đến ngày toàn thắng. Như nhiều đồng đội, anh đã sống sót trở về từ chiến trận và mang theo món nợ tinh thần với những người đã khuất. Nhà thơ mong trả món nợ đó bằng thơ! May mắn được gặp lại người bạn chung chiến hào sau gần nửa thế kỷ, được tác giả gửi tặng tập “Thơ chọn”, xin được mượn thơ anh để thổ lộ lòng mình với đồng đội, đồng nghiệp – bạn thơ, những người ái mộ thơ anh.

“Đọc thơ anh như thấy mình trẻ lại/Giữa cánh rừng đầy hoa lá xanh tươi/Đọc thơ anh, lòng đầy trăn trở/Như lần đầu bỡ ngỡ đến cùng thơ/Đọc thơ anh nghe nồng nàn ấm áp/Đời đáng yêu, duyên nợ còn nhiều”…


 

 

NHỚ ĐỒNG ĐỘI

Một ly ta cạn với ta

Hai ly sóng sánh qua ba bốn người

Quay vòng ly rượu đầy vơi

Chưa say mà đã ướt lời, hoen mi…

 

Chuyền tay ly rượu nghiêng trời

Xoay tròn bao lượt chẳng vơi nghĩa tình

Lẽ đời hai chữ tử sinh

Chén vui dành bạn, lệ mình mặn môi.


 

PHÍA SAU HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN

Vâng, năm đó mùa mưa

Chỉ có mùa mưa mới làm đại ngàn rung lên cơn sốt…

Những người lính đầu đau như búa bổ

Mặt đỏ gấc, da phừng phừng bốc lửa

Mấy triệu hồng cầu không còn phân nửa…

Con bệnh đi vào ác tính, hôn mê

Lính ngã xuống như là trái rụng

Tiếc mới đi nửa chặng đã buông xuôi

Trường Sơn khép vào lòng mình im lặng

Những chàng trai hăm hở yêu đời…

Một lần đau, nhớ bao lần

Những đồng đội đã vắng dần bên ta

Đói vàng mắt, sốt vàng da

Thiếu ăn, thiếu thuốc, quáng gà, phù chân

 

Thương người như thể thương thân

Nhìn cơn ác tính bạn dần mê sâu

Lòng ta như lá héo sầu

Một giây khắc hóa xa nhau suốt đời.

 

Thôi đành vậy nhé bạn ơi!

Chiến trường giục giã vang trời tiếng bom

Bạn nằm canh giữ Trường Sơn

Ngàn năm vẫn vậy trời tròn đất vuông…

 

Mẹ cha dẫu có mỏi mòn

Người yêu se thắt héo hon đợi chờ

Thủy chung hiếu thảo vô bờ

Bạn hy sinh để ước mơ vẹn tròn

 

Ra đi ngời tấm lòng son

Mang bao khát vọng hãy còn dở dang

Bạn đi mới nửa độ đường

Tuổi xuân gửi lại chiến trường xa xôi

 

Nỗi đau nào cũng dần vơi

Rừng xanh xanh mãi những lời mẹ ru

À ơi… nơi chốn xa mù

Có nghe thấy tiếng mẹ ru ngọt ngào…


 

 

NHỚ RỪNG

Những năm xa vắng mẹ và em

Tôi sống với rừng già ngàn tuổi

Mẹ là đất là cây

Em là sông là suối

Cưu mang tôi suốt cả một thời

Đôi khi chỉ một thoáng rừng thôi

Cũng cháy bùng lên bao nỗi nhớ…

 

Tôi cũng như rừng không còn trẻ nữa

Đạn bom hao tổn quá nửa đời

Rút ruột làm thơ vẫn còn mắc nợ

Với bạn bè với cây cỏ rừng ơi!


 

 

NỬA

Tôi em nửa bạn, nửa yêu

Nửa mưa nửa nắng, nửa chiều nửa mai.

Ngày như nửa ngắn nửa dài

Giấc đêm nửa tỉnh, nửa say chập chờn.

Nửa nhân tình có già hơn

Bạn sao bày đặt dỗi hờn không đâu.

Trong vui giấu nửa cơn sầu

Con tim giấu nửa nỗi đau hững hờ.

Liều nên bẻ nửa câu thơ

Làm dầm chèo chống sang bờ tìm nhau.

Nửa ngày không gặp thấy lâu

Nửa giờ điện thoại sao mau quá chừng.

Nửa phần trời, nửa phần trăng

Tôi em ghép lại là bằng số không.

Đến em chẳng ngại đi vòng

Lối ngay phân nửa e lòng chia hai.

Nửa chiều, nửa tối, nửa mai

Nửa yêu nửa bạn, nửa ngoài nửa trong…


 

 

HƠI BỊ… VUI

Dường như hơi bị mê em

Bởi anh hơi bị … bị em hớp hồn

Nhớ nên hơi bị bồn chồn

Thương nên hơi bị mỏi mòn đợi em.

 

Ngày dài hơi bị nhớ đêm

Xa ư… hơi bị gần thêm em rồi

Cầm tay hơi bị bồi hồi

Chẳng sao… hơi bị yêu rồi đó em…


 

 

TUỔI THANH XUÂN

Nhân ngày Hai sáu tháng Ba

Lính ngồi ôn lại trường ca cuộc đời

Tuổi thanh xuân - tuổi tuyệt vời

Có ai không trải quãng đời thanh niên?

Tự hào là một Đoàn viên

Tuổi vừa Mười sáu có tên dưới cờ

Làm theo lời dạy Bác Hồ:

“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”

Mậu Thân Sáu tám đỉnh cao

Làm đơn tâm huyết xin vào miền Nam

Đáp lời Đảng gọi: sẵn sàng

Việc nhà gác lại lên đàng tòng quân

Bí thư Đoàn sản xuất hăng

Trở thành người lính, khó khăn ngại gì

Một năm huấn luyện kiên trì

Phấn  đấu tích cực được ghi bảng vàng

Kết nạp vào Đảng vinh quang

Từ tuổi Mười chín vẫn còn như mơ…

Người cộng sản trẻ bấy giờ

Trung thành theo Đảng phất cờ tiến lên

Hành quân bôn tập luyện rèn

Chân đồng vai sắt, vững bền lòng son

Vượt qua muôn dặm Trường Sơn

Tròn Hai mươi tuổi- tuổi đời trẻ măng

Quân hàm hạ sĩ vinh thăng

A Trưởng Trinh sát đặc công lên đường.

Sài Gòn- Gia Định- chiến trường

Là mục tiêu đến của Đoàn đi B

Dừng chân dưới tán rừng le

Chuyển Đảng chính thức tháng Mười, Bảy mươi.

Miền Đông Nam Bộ đây rồi

Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài, Lộc Ninh…

Bao nhiêu trận đánh liệt oanh

Anh em đồng đội hy sinh đã nhiều.

Sài Gòn- Chợ Lớn mến yêu

Bao giờ đến được thỏa lòng ước mong

Đi qua Mỏ Vẹt, Phước Long

Đức Hòa, Đức Huệ… xuống vùng “da beo”!

Rừng làng cây thấp lèo tèo

Ém quân thật khó làm sao an toàn?

Cập sát dòng sông Sài Gòn

Đông- Tây di chuyển, chống càn, bám dân:

Trung Hòa, Xóm Trại, Lộc Hưng,

Xóm Ràng, Cỏ Ống, Bàu Đưng, Hố Bò…

Canh chừng pháo giặc Đồng Dù,

Chà Rầy, Bến Cát, Đồng Chùa… bắn lên

Pháo bầy: nhạc Tân Tây Lan!

Pháo đinh, tọa độ chẳng làm gì hơn

Ngày ngày địch lống ra càn

Xe tăng, thiết giáp như đàn bọ hung.

Đầy trời phản lực, trực thăng

Nghẹt sông tàu chiến đùng đùng dương vây.

Hậu cứ ta cứ ở đây

Bất chấp bom chụp, pháo bầy: ém quân

Đặc công xuất quỷ nhập thần

Đánh nhanh, diệt gọn, quân dân nức lòng.

Bao nhiêu trận bấy chiến công

Làm Đại đội trưởng: tuổi tròn hai hai

Lính “lọ lem” vậy mà tài

Kiên cường, bất khuất, trọn đời thủy chung.

Tuổi thanh xuân- tuổi anh hùng

Cả trong kháng chiến, cả trong hòa bình

Dưới cờ Đoàn, Đảng quang vinh

Ngũ thập niên vẫn ngờ mình… thanh niên

Ngọc Yến

26/3/2000


 

 

 

 

Những lời hay ý đẹp trong ca dao, tục ngữ để suy ngẫm, vận dụng, rèn luyện _

Những chủ đề được trích từ Nhật ký cho con:

  1. Đạo làm người
  2. Nếp nhà
  3. Mến khách
  4. Tôn sư trọng đạo
  5. Hiểu chữ hiếu
  6. Trọng lễ nghĩa
  7. Đạo đức và nhân cách
  8. Ăn có văn hóa
  9. Tình yêu và hôn nhân
  10. Hiểu biết cuộc sống

 

 

ĐẠO LÀM NGƯỜI

Ông cha chúng ta thường nói: “cho con học dăm ba chữ để làm người”. Hơn 4000 năm lịch sử, “đạo làm người” của dân tộc Việt Nam đã được đúc kết trong ca dao, tục ngữ, truyện đời xưa, truyện Nôm… rất phong phú trong văn, thơ, truyền khẩu.

Sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, mở đầu bài Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi đã viết: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân…”. Trong “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã nhắc:

“Trai thì trung hiếu làm đầu

Gái thì tiết hạnh là câu sửa mình”

“Đạo làm người” của dân tộc Việt Nam có chữ nhân nghĩa, hiếu trung, tiết hạnh… và được thể hiện rất sinh động trong ca dao, tục ngữ:

Để giáo dục, nhắc nhở con cái Làm tròn chữ hiếu nghĩa là phải luôn luôn hiếu thảo, kính trọng, biết ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với mình- công lao ấy to lớn không gì sánh bằng:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha         

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”…

Và phải biết Tôn trọng người già, vì người già cũng như các bậc sinh thành - thuộc thế hệ đi trước, bề trên, phải được lớp người hậu thế tôn trọng và đối xử rất lễ độ:

“Kính lão đắc thọ”

“Kính già, già để tuổi cho”…

Con người muốn “lên người” nhất thiết phải có tri thức, muốn vậy phải học tập. Và để học tốt, bất cứ học ở trường, học ở nhà, học ở nơi làm việc v.v… đã là học thì phải Biết ơn thầy:

 “Không thầy đố mày làm nên!”

 “Muốn sang thì bắc cầu Kiều

   Muốn con hay chữ thì yêu mến thầy”…

Trong gia đình, trước hết mỗi người phải tự tu dưỡng, rèn luyện lòng nhân ái, thương yêu anh chị em ruột thịt - đó là khúc ruột trên, khúc ruột dưới trong một cơ thể của cha mẹ mình:

“Chị ngã em nâng”.

“Anh em như thể tay chân”…

Và, không thể chỉ có một gia đình mình, còn dòng họ, làng xóm, xã hội,… trong cuộc sống mỗi con người cần có sự thương yêu, nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau:

“Giọt máu đào hơn ao nước lã”

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

“Lá lành đùm lá rách”

“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”

“Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”…

Trong con người luôn luôn có hai thái cực “Thiện và Ác”. Nhưng mỗi con người phải biết tự kiềm chế để hạn chế thấp nhất hoặc không bao giờ làm điều ác, không để cho điều ác- cả trong tư tưởng xuất hiện. Tăng cường làm điều thiện, đừng vong ân bội nghĩa, nghĩa là phải biết “làm ơn vô tư, biết ơn chân thành”:

“Người trồng cây hạnh người chơi,

 Ta trồng cây Phước để đời cho con”

 

“Tham vàng, bỏ nghĩa ai ơi         

  Vàng ăn thì hết, nghĩa tôi hãy còn”

“Ở hiền gặp lành”

“Ông trời có mắt”

“Nhà có phước dâu hiền, rể thảo

  Nhà vô phước dâu cáo, rể chồn”…

Trong bất cứ xã hội nào, bất cứ điều kiện sống như thế nào thì việc tu dưỡng đạo đức, giữ gìn nền nếp gia đình, học lời ăn, tiếng nói là điều hết sức quan trọng và hết sức cần thiết:

“Học ăn, học nói, học gói, học mở”…

“Đói cho sạch, rách cho thơm”

“Giấy rách phải giữ lấy lề”

“Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”

“Chim khôn hót tiếng rảnh rang,

Người khôn ăn nói dịu dàng, dễ nghe”

“Lời nói không mất tiền mua,

  Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”…

Là bậc cha mẹ, ai ai cũng muốn con cái chăm chỉ học chữ, học nghề, siêng năng lao động, tránh cờ bạc rượu chè bê tha:

 

 “Chẳng tham ruộng cả, ao liền

 Tham vì cái bút, cái nghiên anh đồ”

“Ruộng vườn bề bề không bằng có nghề cầm tay”

“Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,

 Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày”

“Cờ bạc là bác thằng bần”…

Thường thì con cái mang theo gen và chịu ảnh hưởng rất lớn từ cha mẹ, những đứa em ảnh hưởng và hay bắt chước anh chị nó. Vì thế, những người mẹ, người bà phải chịu trách nhiệm rất lớn trong việc giáo dục con, cháu “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”…

Và để hướng thiện. tránh làm điều xấu, không để người đời chê cười, ca dao xưa có câu:

“Trăm năm bia đá thì mòn,

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”…

Đừng bao giờ quên truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc cũng như nền nếp gia đình. Tuyệt đối không được làm điều gì trái với những gì tốt đẹp mà cha ông đã để lại cho đời sau. Đó là bổn phận và trách nhiệm của đạo làm con.

Những điều tâm sự hay những lời răn thông qua ca dao, tục ngữ trên đây mang màu sắc dân tộc và chịu ảnh hưởng không ít tư tưởng phương Đông mà chủ yếu là thuyết Nho giáo của Khổng Tử. Nho giáo là một học thuyết về đạo đức, coi đạo đức như phương sách duy nhất, hữu hiệu nhất để ổn định trật tự xã hội- đặc biệt là từ gia đình, lấy gia đình làm trung tâm: “Tu thân- Tề gia- Trị quốc- Bình thiên hạ”.

Tiện đây, chúng ta xem thử học thuyết đó, bởi vì những tư tưởng ấy cũng đã đi vào lòng người và có ảnh hưởng sâu sắc đến hôm nay:

Khổng Tử là một người có tài sáng chói của Trung Quốc. Trong thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc, ông đã đưa ra học thuyết “Chính danh” phân định mỗi quan hệ khác nhau (trong gia đình và xã hội) thì danh (tên gọi) khác nhau. Mỗi danh đó có một tiêu chuẩn nhất định, những danh đó có quan hệ với nhau tạo thành 5 mối quan hệ chính- gọi là Ngũ luân.Trong đó, có 2 vế, vế đứng trước bao giờ cũng giữ vai trò phán quyết (Sử) và vế sau phải phục tùng (Sự). Ví dụ:

 

Quan hệ tam cương


Trong mối quan hệ đối nhân xử thế, thường nghe nói “Tam cương- Ngũ thường” nghĩa là gì? Đó là 3 mối quan hệ hình thành từ gia đình như trên. Nếu nói cụ thể, được hiểu như sau:

Học thuyết này mang tính chất gia trưởng, phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền là cơ bản nhưng nó đã có ảnh hưởng không ít với những tư tưởng hay nhất, đi vào lòng người nhất và còn là những dấu son để lại đến ngày nay. “Mình muốn cái gì thì hãy làm điều ấy cho người khác”…

Về quan hệ Vợ- Chồng, Nho giáo quy định “Tam tòng” nghĩa là: Tại gia tòng phụ; Xuất giá tòng phu; Phu tử tòng tử. “Tứ đức” nghĩa là người con gái phải có Công, Dung, Ngôn, Hạnh.


 

 

NẾP NHÀ

Nhà đẹp là tổ ấm của mỗi gia đình, nó sẽ làm tăng thêm ý nghĩa, chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của mọi thành viên. Tuy nhiên, chúng ta không nên quên nhắc nhở cái cốt lõi là nếp nhà chứ không phải chỉ là cái nhà. Xây dựng một ngôi nhà to, đẹp đã khó nhưng không khó bằng tạo lập một nếp nhà, một gia đình hạnh phúc thật sự. Hạnh phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không nên cầu xin. Nó là cách sống, là nếp nhà, một quan niệm sống ở trong tay mình nhưng nhận được ra nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không dễ, có khi phải mất vài đời người, phải được giáo dục qua vài đời.

Có những gia đình con, cháu, dâu, rể đông đúc đùm đề mà họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp ăn. Thiên hạ thì chia ra, họ lại gom vào.Vẫn êm thắm mới lạ chứ. Phải chăng, nếp nhà đã thắng được tự do của cá nhân? Đó là điều chúng ta đáng xem xét, học tập lắm thay!

Học tạo lập nếp nhà chính là học làm người cho phải đạo, chuyện ấy ai cũng biết cả, chỉ khó học thôi. Ví thử “trong nhà không một ai biết tới câu mày, câu tao”- đơn giản vậy thôi, muốn học được đã thật khó. Thời bây giờ, khối gì người có được vài trăm cây vàng cũng không phải mất thời gian lâu lắm, nhưng không dễ mấy ai có được một nếp nhà hạnh phúc trong thời gian ngắn ấy. Bây giờ, hầu như mọi người đều chú tâm lao vào kiếm tiền, không ít kẻ nuôi mộng làm triệu phú, tỷ phú trong chớp mắt. khốn một nỗi trong họ lại chưa từng được ai dạy bảo cách ăn ở với đồng tiền. Đồng tiền vừa là đầy tớ, vừa là ông chủ, vừa là bạn đường, vừa là giặc cướp. Những người giàu lên do cướp đoạt, lừa đảo nói chuyện một lúc là biết, bọn họ khinh người rẻ của lắm. Họ không tin một ai cả, càng không tin còn có lòng tốt ở đời. Họ chỉ tin có tiền - tiền là quân của họ - một đội quân giặc cướp, sẵn sàng tàn phá tất cả, tiêu diệt tất cả để đạt được những cái đích phù phiếm của chủ nó. Bởi vậy, biết quý trọng đồng tiền mình làm ra nhưng chớ để lệ thuộc bởi đồng tiền. Không cần đến tiền thì không nên một lúc cầm nhiều tiền quá. Đồng tiền do may mắn mà có, do thời thế đổi thay mà có rất dễ là mầm mống của tai họa nếu người có tiền chưa kịp học cách tôn trọng đồng tiền, sai khiến đồng tiền. “Đồng tiền chỉ là phương tiện của người thông minh”. Càng ít sờ mó đến tiền càng tốt. Nó độc đấy! Bàn tay thương vợ, thương chồng, yêu con, bàn tay nắm bàn tay của bạn bè không được để nhiễm độc của đồng tiền!

Như vậy, ngay ở trong gia đình không được phép để cho đồng tiền làm khuynh đảo nề nếp. Muốn giữ được nếp nhà, ngay từ bây giờ, dù bắt đầu từ đâu cũng phải xây dựng một số nguyên tắc bắt buộc từ già đến trẻ phải tuân theo một cách nghiêm túc. Thời thế có thể thay đổi nhưng cách sống của gia đình không thay đổi. Đó là sống thẳng thắn, sống lương thiện và sống theo pháp luật hiện hành. Làm sao những quy ước đạo đức ấy trở thành truyền thống để mọi thành viên thực hiện một cách tự giác.

Con người ta ai ai cũng có phần thiện, phần ác. Muốn dưỡng thiện diệt ác thì trong nhà phải có gia pháp, ngoài xã hội phải có luật pháp. Trong gia pháp

 

có phần truyền thống và danh dự của dòng họ, có phần đạo đức của người trên và trách nhiệm của người dưới. Gia pháp cũng phải theo thời mà điều chỉnh, cũng giống luật pháp, quá ngược với thời thế thì con cháu khó theo, quá xu mị thời thế thì bỏ mất gốc rễ… Bởi chính lẽ đó, nó đòi hỏi sự hiểu biết và khả năng của mọi người, của mỗi người và của mọi thế hệ tiếp nối.

MẾN KHÁCH

Theo phong tục Việt Nam, khi “nhà có khách”thì việc đón tiếp, mời chào, đưa tiễn… đều được thể hiện rất nhiệt tình, thân thiện và chu đáo. Do điều kiện khí hậu và hoàn cảnh thực tế, căn nhà- gia đình Việt Nam thường có kiểu kiến trúc đặc biệt, cách xây cất nhà có tính quây quần, ấm cúng và nâng cao lòng tự trọng. Và bao giờ, gian nhà dành để tiếp khách cũng là nơi có diện tích rộng nhất, thuận lợi và trang trí đẹp đẽ, lịch

 

 

sự nhất. Cửa lớn nhất cũng là nơi đón khách! Điều đó chứng tỏ mỗi gia đình đều rất tôn trọng khách và muốn khách đến nhà. Ai cũng muốn thêm niềm vui “nhà có khách”.

Học giả Phan Kế Bính từng có nhận xét: “Khách khứa qua lại chơi bời cũng là một cách vãng lai thù tạc. Không có thể khiết nhiên đi được. Mà người đã không có ai qua lại thăm viếng, thì chắc nhân phẩm cũng chẳng ra gì”. Ông còn nói thêm, khách đến nhà “phần nhiều là có lòng yêu cầu gì mới lấy nê đến thăm mà nói chuyện… Song cái tình của người chủ nhà đối với bà con khách khứa thì cũng nên lựa cái sức mình và tùy cái tình người mà cư xử cho một vừa hai phải, mới là phải đạo”. Làm nhà, trang trí phòng khách đẹp đẽ là để đón khách đến chơi, tỏ lòng hiếu khách. Quả thật không có gì buồn hơn một căn nhà… chẳng bao giờ có khách!


 

 

TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO

Các con thật may mắn được sinh ra và lớn lên trong cảnh đất nước thanh bình, việc học hành đang mở ra tương lai tươi sáng trước mắt. Nhớ lại thời ba, mẹ con bằng tuổi các con bây giờ, do điều kiện chiến tranh và hoàn cảnh kinh tế lúc đó của đất nước, đa số là “thất học”. Nhưng không phải vì thế mà không chịu “tự học” để vươn tới. Biết vậy, thành ra dù ở trong hoàn cảnh nào, môi trường công tác nào, ở đâu ba cũng gắng học, học ở thầy, học ở bạn, học ở sách và học ở ngay trong cuộc sống đời thường. Ngay trong xã hội, nếu chúng ta biết tìm, sẽ có hàng ngàn, hàng vạn người thầy thầm lặng, có thể là cấp trên, đồng sự, công nhân viên, cấp dưới của mình và ngay cả trong lớp người trẻ, nhỏ tuổi hơn vẫn có những điều hay mà mình cần phải học hỏi ở họ. Trong đời sống hằng ngày, gặp được một câu nói rất triết lý, rất logic của người lớn hay trong sách báo hoặc một câu nói rất ngây thơ của trẻ con, mà thấy hay, thấy thích thú cần

 

ghi ngay vào “bộ nhớ” mà nghiền ngẫm, mà trau dồi- kể cả ghi chép và ghi nhớ trong trí não.

Lúc lên bảy tuổi, ba học ở trường làng, ngày lên lớp vẫn mặc quần áo ta bằng vải diềm bâu nhuộm màu nâu non hay màu gụ dân tộc. Lúc đó, quê hương nói chung và nhà mình nói riêng còn nghèo lắm. Thế nhưng, việc học hành lại nghiêm túc và chất lượng có lẽ sau này nền giáo dục cũng khó duy trì nề nếp kỷ cương trong học hành, rèn giũa con người kỹ càng đến vậy. Thầy giáo đầu tiên của ba cũng là người trong làng và là lớp thầy giáo kỳ cựu nhất, đã dạy cho học trò của mình biết chữ, biết viết câu văn, lắp ghép chữ nghĩa, sao cho nét chữ đứng đắn, uyển chuyển, chân phương; khi đặt bút viết là nét chữ, lời văn chân thật dễ dàng như ta bưng bát cơm lên và vào miệng. Và biết bao nhiêu thầy cô giáo tiếp nối đã tận tụy suốt đời dạy cho học trò của mình biết làm người có ích, dạy cho học trò cả từ “dấu chấm trong đời”, phải biết đặt dấu chấm đúng lúc mà lớp người sau này gọi đùa là “dấu chấm nhân sinh”. Rất tiếc, lớp người độ tuổi của

 

ba văn chương bị bùn đất chiến hào làm lấm lem hết trọi, thậm chí ngay cả trên đồng ruộng bùn đất quê mùa trong thời chinh chiến đó. Có một điều rất đáng tự hào mà các con sau này cần nhớ là chính những người học trò ít được học ở trường cơ bản hồi đó đều đã góp máu xương cùng dân tộc giành được độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Đó chính là kết quả của việc học, được truyền thụ, hun đúc lòng yêu nước, căm thù giặc, quyện với truyền thống quê hương, các thầy cô và nhân dân đã dạy cho học trò của mình biết lập chiến khu, chế súng đạn và học cả bắn máy bay phản lực Mỹ bằng súng trường, AK… Đó cũng là cuộc tự học của cả một thế hệ lặng thầm mà vĩ đại!

Thế giới ngày nay rộng mở, trước mắt chúng ta công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, của dân tộc mong đợi sự tiến triển phi thường của thế hệ trẻ- thế hệ của hôm nay và mai sau. Muốn đáp ứng yêu cầu đổi mới của thời đại mới phải “học, học nữa, học mãi” như Lê - Nin đã dạy. Điều này đòi hỏi thế hệ trẻ phải gắng học cho nên người, không được để mình thua chị

 

kém em nhiều quá, cần phải biết cách học, chịu khó học, học ở trong nhà trường, học thầy, học bạn và học cả ngoài đời… Sự học là cần vô hạn, không biết bao nhiêu là đủ bởi tri thức và xã hội luôn phát triển. Tuổi trẻ còn được đi học, hãy cố mà học cho thật tốt, học càng nhiều càng có ích về sau, sự học là cần mãi mãi, không bao giờ sợ thừa. Được học từ nhỏ, liên tục học lên, sẽ hiểu rộng, nhớ lâu, thành đạt hơn là lớn tuổi rồi mới đi học tiếp. Người xưa có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Quy luật phát triển xã hội loại người nói chung là các thế hệ sau bao giờ cũng “hơn” các thế hệ trước. Và điều chắc chắn là trong môi trường xã hội mới văn minh, tiến bộ hơn; khoa học phát triển và đời sống ngày càng được nâng cao hơn, thế hệ sau nhất định phải hơn hẳn các thế hệ trước đó.

Tuổi vị thành niên được tính từ lúc trẻ bắt đầu có biểu hiện dậy thì đến 17 tuổi. Người phương Tây gọi là Adolescence nghĩa là lớn lên và bao hàm nghĩa thay đổi. Có thể nói: “tuổi vị thành niên” là tuổi của sự thay đổi với nhiều nghịch lý trong quá trình phát triển tâm

 

lý. Trong độ tuổi này, thiếu niên “vừa là trẻ em vừa là người lớn” phải vượt qua nhiều thử thách với nhiều vấn đề liên quan đến quá trình phát triển nhân cách con người. Những hành vi cơ bản như hành vi đòi hỏi nhu cầu thỏa mãn và những trở ngại do môi trường và do xung đột gia đình đối với nhu cầu thỏa mãn của trẻ có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành nhân cách ngay từ khi mới ra đời. Để giúp thiếu niên vượt qua được thử thách tâm lý theo chiều hướng tích cực, cần uốn nắn mọi hoạt động, nâng cao và củng cố kiến thức học tập của các em, giúp trẻ nhận dạng bản thân, nhận dạng xã hội, chuyển hứng thú theo hướng tích cực phù hợp với cơ thể đang phát triển, với phong tục tập quán và chuẩn mực xã hội mới.

Con người là nhân tố quyết định của mọi thành bại. Nhưng con người tài giỏi phải đi đôi với đạo đức. Đừng vội cho là thời đại khoa học, con người đã lên đến mặt trăng mà còn ngồi nói chuyện xưa cũ. Cơm ăn nước uống, cũ thật đấy, nhưng loài người còn tồn tại, còn cần nó. Con người dù tài ba lỗi lạc đến đâu mà

 

không có đạo đức, không yêu nước thương nhà, không kính cha thờ mẹ, những con người ấy vẫn bị người đời khinh bỉ, ruồng bỏ. Kẻ nào quên ơn cha mẹ, kẻ đó không phải là con người. Bác Hồ đã nói: Người Cách mạng chân chính là người con chí hiếu. Trần Quý Cáp đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Bảng nhãn) - nhà tri sĩ  yêu nước này khi cha mẹ lâm bệnh đã túc trực ngày đêm bên giường ròng rã hơn 7 tháng trời. Trần Quang Diệu - danh tướng nhà Tây Sơn- đang chỉ huy vây thành Bình Định, được tin mẹ bệnh, nóng nảy ra lệnh siết chặt vòng vây, hạ xong thành, đang đêm băng rừng về thăm mẹ. Nguyễn Đình Chiểu ra Huế thi, nghe tin mẹ mất đã quay về khóc mù đôi mắt. Vĩ nhân anh hùng đều từ những gia đình có giáo dục mà ra. Tình cha mẹ đối với con cái như non cao biển rộng. Chẳng nơi nào sánh được với mái ấm gia đình.

Một đức tính cao quý không thể nào thiếu của người có học thức, đó là sự khiêm nhường. Nên biết rằng, sự hiểu biết của con người chỉ như giọt nước trong biển cả, sự huyền bí của vũ trụ mênh mông bao

 

la này còn biết bao nhiêu điều khoa học chưa giải thích được. Ngoài những điều căn bản học ở nhà trường, cần phải tìm tòi nghiên cứu tự học thêm kiến thức mới sâu rộng… Muôn đời dưới ánh sáng mặt trời, mọi sự vật biến đổi, chỉ có tình nghĩa con người tồn tại mãi với thời gian.


 

 

HIỂU CHỮ HIẾU

Cha mẹ chỉ là một phần đời của con cái, trong khi con cái là cả cuộc đời của cha mẹ; theo lẽ thường thấy, bao giờ cha mẹ cũng nhường nhịn cho con và nhiều bậc cha mẹ không hề nghĩ ngược lại. Nhưng như thế không phải là tốt. Một đứa trẻ luôn được thỏa mãn mọi thứ, khi trưởng thành sẽ không biết hy sinh, ngay cả đối với bậc sinh thành. Vì vậy, trong gia đình Việt Nam, việc dạy dỗ con cái là điều cực kỳ quan trọng     “Dạy con chữ HIẾU làm đầu” là truyền thống dân tộc, là nghĩa vụ của cha mẹ. Và “Phận con chữ HIẾU làm đầu” cũng là nghĩa vụ, là trách nhiệm của con cái. Hãy đọc lại lời dạy con của người xưa:

“Chẳng lo thân bậu, thân qua/Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao”. Lo như thế nào? Trước hết là nhường cho cha mẹ những thứ cần thiết dù bản thân con còn thiếu thốn. Chẳng hạn: “Đói lòng ăn bát cháo môn/Để cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung”

 

 

Hay:

”Đói lòng ăn hạt chà là/Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”. Để giành cho cha mẹ dù chỉ là phần cơm cũng có giá trị như những món ngon vật lạ của các gia đình giàu có: “Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi/Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già”

Trong xã hội ngày nay, có nhiều người con có chức có quyền, giàu có hẳn hoi nhưng lại tìm mọi cách đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão để tránh phiền phức, khỏi phải “lo” cho mấy ông bà già vô tích sự đó?! Chắc chắn những người con bất hiếu này trước kia không được giáo dục về sự nhường nhịn – một hành động mang ý nghĩa hy sinh!

Còn gì đẹp hơn nghĩa cử của những đứa con “Khó nghèo củi núi rau non/Nuôi cha, nuôi mẹ cho tròn nghĩa con”. Chẳng những lo cho cha mẹ cái ăn, mà còn phải nhớ đến sở thích, đến những vật dụng cần thiết , bình thường hàng ngày của phụ mẫu: “Ai về tôi gởi buồng cau/Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy/Ai về tôi gởi đôi giày/Phòng khi mưa gió để thầy

 

mẹ đi”. Những món quà ấy, tuy nhỏ nhưng cha mẹ vui biết chừng nào khi thấy con còn nghĩ đến mình. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó không phải người lớn tuổi nào cũng có diễm phúc được hưởng.

Một nhà giáo dục rất nổi tiếng của thế giới đã tổng kết rằng: “Đời người có ba cái bất hạnh: tuổi già, cái chết và con hư. Tuổi già và cái chết là không thể tránh khỏi, nhưng con hư là điều hoàn toàn có thể tránh khỏi”. Đúng vậy, nếu cha mẹ, các bậc phụ huynh biết giáo dục cho con em của mình nhớ đến cha mẹ hơn là làm cho nó chỉ nhớ đến nó, không được để cho chúng chỉ biết đòi hỏi, hưởng thụ… Thương con là phải biết dạy cho con hiếu thảo với cha mẹ như cổ nhân đã dạy.


 

 

TRỌNG LỄ NGHĨA

Từ xa xưa ông cha ta đã có câu “con lên ba, cả nhà học nói”. Khi cục cưng của chúng ta bắt đầu bập bẹ thì cả nhà vui nhộn hẳn lên. Câu nói này còn là một kinh nghiệm dạy trẻ con nói những câu đầu đời của chúng. Vì dạy con trẻ nói là việc làm của cả nhà, không riêng gì của mẹ hay của một người nào đó. Nếu “cả nhà” đây là một đại gia đình, có nhiều thế hệ cùng sống chung, thì từ ông bà đến cha mẹ, đến anh chị, cô chú… ai ai cũng phải quan tâm. “Cả nhà” đây còn có nghĩa rộng, là cả cộng đồng xung quanh, những người có điều kiện gần gũi với trẻ nhỏ. Quả là ông cha ta đã hình tượng hóa phương pháp dạy trẻ bắt đầu tập nói rất khôi hài nhưng rất thâm thúy, đó chính là phương pháp tốt nhất để dạy nói cho con cháu chúng ta.

Đối với chúng – những con chim non của chúng ta, thử hỏi có cách nào thích hợp hơn là làm mẫu cho chúng bắt chước? Mọi người phải đóng vai con nít, phải kiên trì dạy chúng từng tiếng một, rất từ từ, vừa học vừa chơi, không nóng vội, không nhồi nhét, như

 

chính mình phải học với chúng vậy. Giúp cho bé của chúng ta nghe rõ, phát âm được chuẩn, nhớ được và sử dụng cho đúng chỗ một từ nào đó, quả là một việc khá công phu, nhất là những tiếng nói đầu tiên. Riêng một tiếng “dạ” thôi, có khi bé phải học trong cả tháng.

Muốn giúp bé dễ dàng, mỗi lần bé gọi ông ơi, bà ơi, mẹ ơi, ba ơi… hễ gọi đến ai là người đó phải “dạ” ngay, “dạ” thật to, thật rõ và cũng cần phải giúp bé biết phân biệt thế nào là “gọi dạ bảo vâng” đó là điều khá rắc rối, cần phải có sự phân biệt rõ ràng.

Dân tộc ta, ông cha ta có truyền thống độc đáo là trọng lễ nghĩa, nên khi dạy con cháu những tiếng nói đầu tiên đã chú ý kết hợp với việc dạy lễ nghĩa. Thường các bé được học rất kỹ, rất sớm những từ ngữ chỉ sự vâng dạ, thưa gửi, chào hỏi, xin phép, cám ơn, xin lỗi… Đồng thời cũng được học cả cách thức sử dụng chúng trong giao tiếp hàng ngày. Ngay cả khi còn chập chững, nói còn ngọng nghịu, nhưng mỗi lần gặp người lớn tuổi là phải biết cúi đầu, vòng tay đứng ngay ngắn, nói năng lễ độ “cháu chào ông ạ”, “cháu

 

chào bà ạ”, dễ thương vô cùng. Những từ ngữ và những cử chỉ đó dần dần thành những thói quen tốt đẹp tồn tại suốt cuộc đời. Tuổi của trẻ dần được quan tâm về mọi mặt, cả cách xưng hô cho đúng đắn nữa. Nếu người lớn vô tình nói ra điều gì là sự lặp lại sẽ diễn ra ngay sau đó. Xưng hô đúng thể hiện tôn ti trật tự của gia đình và họ hàng làng nước. Xưng hô khiêm tốn dễ gây được thiện cảm với người xung quanh. Biết rằng, cách xưng hô trong tiếng Việt khá phức tạp, rất khó học, bởi vì cái đại danh từ ngôi thứ nhất chỉ về mình, có nghĩa là “tôi” ấy, lại có quá nhiều: tôi, tui, tao, tớ, mình, đằng này… con, cháu, anh, chị, em… và cả những từ như ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cậu, mợ… cũng có nghĩa là “tôi” hoặc “tao” khi dùng để chửi mắng với thái độ khinh miệt, giận dữ. Chính vì vậy mà “cả nhà cùng phải học”. Trong trường hợp này, để giáo dục và giúp trẻ, người lớn phải thay con cháu mình gọi và xưng hô thích hợp với từng đối tượng tiếp xúc (gọi thay con), khi thì “cháu chào ông”, khi thì “em chào anh”… Ở quê mình, do phải “học nói” quá nhiều theo kiểu này, dần dần thành thói quen, đến khi

 

đã thành cụ, thành kị rồi mà vẫn xưng em, xưng cháu với người nhỏ tuổi hơn mình; gọi anh, gọi chị cả với những người bằng vai bằng vế với con cháu mình. Dân ta còn có thói quen (trở thành tục lệ) mời nhau trước khi vào bữa ăn, người nhỏ hơn phải mời người lớn hơn, mời từ người cao tuổi nhất (trong mâm cơm) trở xuống: “Cháu mời ông bà xơi cơm ạ”,”con mời bố mẹ xơi cơm ạ”,… cứ như thế mời khắp lượt mới bắt đầu ăn. Thói quen này, tuy có vẻ hình thức và phiền phức, nhưng lại có tác dụng giúp các cháu biết cách xưng hô đúng đắn và nhuần nhuyễn, tỏ lòng hiếu thảo và trân trọng giữa người dưới với người trên trong gia đình. Nên nhớ, lời chào cao hơn mâm cỗ, cái nhìn phải chân thành cũng như khi bắt tay, phải nhìn thẳng và nắm vừa đủ chặt, mới trọn vẹn.

Trong điều kiện văn minh xã hội ngày càng phát triển, trẻ em được chăm sóc kỹ hơn trước rất nhiều về đời sống vật chất cũng như việc học hành. Thế nhưng các bậc cha mẹ không nên ỷ lại vào nhà trẻ, nhà mẫu giáo và trường học; không được dễ dãi với con cái

 

mình trong việc nói năng mà phải chú ý từng lời ăn tiếng nói, phong cách giao tiếp … ngay từ tấm bé. Tuy nhiên, cũng không nên dạy con theo cách “chưa biết bò đã lo tập chạy” như cho nói năng, chào hỏi bằng tiếng Tây, tiếng Tàu quá sớm.

ĐẠO ĐỨC VÀ NHÂN CÁCH

Trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 20, người ta luôn thiên hướng về giáo dục đạo đức và nhân cách, chính từ nền tảng đó sinh ra bản chất và năng lực của con người. “Cái gì mà chúng ta học được ở tuổi thơ thì luôn luôn còn mãi”.

Những kinh nghiệm giáo dục của người xưa, của nhân loại có khi được bắt đầu bằng những triết lý xâu xa, cứ theo ta suốt mỗi chặng đường đời, có khi lại bắt đầu bằng những điều thật giản dị. Vẫn biết rằng học cái mới, cái hiện đại trong thời đại ngày nay là hợp quy luật và xu thế chung. Nhưng chúng ta cũng cần nhìn lại những kinh nghiệm giáo dục của ông cha, của

 

nhân loại từ ngàn xưa, trong đó còn có biết bao điều đáng để đời sau suy nghĩ, vận dụng như việc giáo dục, dạy dỗ cho con trẻ ngay khi chúng còn rất nhỏ, bắt đầu bằng tình yêu, lòng kính trọng và biết ơn với ông bà, cha mẹ, người thân, thầy cô và tình cảm thiêng liêng với quê hương, nguồn cộị… Đó là những điều không phải chỉ hôm nay mà mãi mãi mai sau mọi người phải ghi nhớ và tâm niệm. Nên hiểu rằng: Những đứa trẻ chịu sự chăm sóc, giáo dục đầy đủ - nhất là về tình cảm và đạo đức – một cách cẩn thận ngay từ lúc còn thơ bé, và được thường xuyên rèn luyện tu dưỡng, chắc chắn không rơi vào những trường hợp đáng tiếc trong bất cứ hoàn cảnh nào; chí ít chúng cũng biết được cha, mẹ, ông bà mình là ai, như thế nào để noi theo, học tập; để mà trở thành con ngoan, trở thành người tốt, có ích cho xã hội; có tình thương, hiếu nghĩa đối với gia đình.

Người Nga đã có câu ngạn ngữ: “Những kẻ không có tình yêu với cả người ruột thịt, kẻ đó không bao giờ có tình bạn chân chính”. Vì thế, đừng bao giờ quên tình nghĩa ruột thịt của mình!

 

“Xin đừng đứng thấp trông cao,
Xin đừng tơ tưởng chốn nào hơn đây.
Thôi đừng bắt cá hai tay,
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn”…

 “Xin đừng tham gió bỏ mây,
Tham vườn táo rụng bỏ cây nhãn lồng”.


 

 

ĂN CÓ VĂN HÓA

Khi người ta đủ ăn, đủ để, thì chuyện ăn uống cũng được nâng cao. Và cái ăn cũng có nét văn hóa riêng của nó.

“Ăn” là nhu cầu hàng đầu của loài người từ xưa đến nay, muốn hay không muốn, hàng ngày ai cũng phải ăn mới có sức khỏe đế sống và làm việc: Ăn là nhu cầu để tồn tại của con người – điều đó tuy đơn giản nhưng cũng rất phức tạp, đôi khi trở thành nguyên nhân tranh chấp, hiềm khích của một số người. Tục ngữ có câu: “có thực mới vực được đạo” – cái ăn ở đây vừa có ý nghĩa cụ thể, vừa có ý nghĩa khái quát. Nó vừa chỉ miếng ăn, vừa chỉ quyền lợi mà con người theo đuổi. Vì cái ăn là nhu cầu nên cái lo của con người cũng đặt nặng vấn đề này trong cuộc sống. No ấm rồi mới nói đến phát triển. Có lao động mới có miếng ăn, đôi khi kiếm miếng ăn phải lắm vất vả, khó khăn nên tục ngữ có câu:

 

 

“Có khó mới có miếng ăn

Không dưng ai dễ đem phần đến cho”

Để khuyên bảo mọi người sống đơn sơ, giản dị, tục ngữ có câu “ ăn chắc mặc bền”. Khi gặp khó khăn, được sự giúp đỡ kịp thời, đó là điều đáng quý, tục ngữ dân gian đã so sánh: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Miếng ăn là cần thiết, nhưng có những miếng ăn đã để đời những tiếng không hay: “ăn một miếng, tiếng một đời”. Trong xã hội, ghen ăn, giành ăn, tham ăn, ăn tục, ăn bẩn…cũng thường xảy ra. Vì thế tục ngữ có câu: “Ghen vợ, ghen chồng không nồng bằng ghen ăn”. Hoặc những câu nói về nghệ thuật ăn uống xuất phát từ ý thích và khẩu vị của người bình dân như: “cơm chín tới, cải ngồng ngọn, gái một con, gà gại ổ”, “Lợn giò, bò bắp”, “Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê”, “Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm”, “chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè”…

Ăn có văn hóa còn thể hiện ở cung cách, tư thế của người đang ăn, “ăn trông nồi, ngồi có hướng”. “Ăn nên đọi, nói nên lời”… Văn hóa thể hiện ngay trong cách ăn ở của mình. Nghèo hay giàu cũng sống có văn hóa, có vệ sinh được nếu con người có ý thức sống tốt, biết rút đúc từ những kinh nghiệm sống của người xưa, nó như những viên ngọc long lanh, soi sáng tâm hồn mỗi con người hôm nay.

TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN

“Cái duyên” – vốn quý vô cùng của những người con gái. Vì thế trong việc lựa chọn người bạn đời, mọi người thường đồng ý với nhau về một tiêu chuẩn ở người bạn gái là: “Không cần đẹp, chỉ cần có duyên”. Vậy thì theo cách nhìn của bạn trai, cái duyên của người con gái là như thế nào?

Có cái duyên trời cho, nhưng cũng có cái duyên người con gái có thể tạo được. Thông thường, cái duyên “trời cho” chỉ có tác dụng lôi cuốn bạn trai lúc ban đầu, nhưng để lưu giữ một tình cảm chân thành và lâu dài, lại cần đến cái duyên do chính người con gái tự tạo lấy. Tất nhiên, nếu hình thức bên ngoài không

 

được hấp dẫn lắm, người con gái ấy cũng cần “nghiên cứu” một cách thức ăn mặc, trang điểm, đi đứng, rèn luyện thẩm mỹ, thể dục v.v… để làm tăng thêm vẻ đẹp ngoại hình của mình mà vẫn phù hợp với hoàn cảnh, công việc nhưng đặc biệt chú ý là không được quá lố.

Chẳng hạn, cần để mái tóc sao cho phù hợp với gương mặt và dáng người, nếu cao quá không nên cắt tóc ngắn hoặc hơi thấp thì không nên để tóc quá dài… Trang điểm không nên quá cầu kỳ và tránh dùng nhiều son phấn quá; chỉ khi nào cần mới trang điểm, để giữ gìn da đẹp tự nhiên. Về y phục, nhiều khi không cần là loại vải đắt tiền mà chỉ cần chọn một màu áo, một kiểu hoa, một cách may phù hợp với vóc người và màu da của mình, cũng đủ tạo nên cảm giác hấp dẫn trong mắt người khác. Trang sức, có thể chỉ cần một cái kẹp tóc hay một dải “ruy băng” buộc tóc có màu thích hợp chẳng hạn, cũng đủ để tạo nét duyên nơi mỗi người con gái…

Nhưng nếu cho rằng cái duyên của người con gái chỉ ở sắc đẹp và trang sức bên ngoài thì chưa đủ. Thực

 

tế cho thấy, người con gái có khuôn mặt, vóc dáng, làn da và cách ăn mặc đẹp, đúng “ mốt” nhưng vẫn không được xem là một cô gái có duyên, Cái duyên của người con gái còn ở trong thái độ, cách cư xử, cách ăn nói… những cái đó có liên quan đến tâm hồn, đến sự hiểu biết và nhận thức của người đó với các vấn đề của cuộc sống. Một người con gái xinh đẹp nhưng kiêu kỳ, tự cao hẳn không được nhiều người thích bằng một người con gái có nhan sắc trung bình nhưng thái độ lúc nào cũng khiêm tốn, dịu dàng.

Một yếu tố tạo nên cái duyên rõ nét nhất ở người con gái là nụ cười.Ở những người được coi là duyên dáng, người ta thường thấy nụ cười luôn nở trên môi và sự vui tươi chan hòa trên nét mặt, trong ánh mắt. Nếu muốn trở nên một người duyên dáng, trước hết hãy bỏ đi sự buồn bực nếu có ở trong lòng và lúc nào cũng giữ cho mình một nụ cười và một nét vui tươi. Nụ cười làm cho khuôn mặt sáng lên, cơ thể giàu sức sống hơn, khiến người khác có cảm giác dễ thân, dễ gần hơn. Thái độ quá khô khan hay quá nghiêm trang

 

trong khi giao tiếp rất dễ gây ở người khác cảm giác xa cách hay thiếu cảm tình.

Nét duyên quan trọng khác là cách ăn nói. Người ta có câu: “Cách ăn nói là khuôn mặt thứ hai của một người”. Bởi vậy, người con gái cần luôn luôn nói năng hòa nhã, vui vẻ, hoạt bát (nhưng đừng quá ồn ào), thẳng thắn nhưng không được bốp chát. Và nói chung, nên tránh những lời nói, cử chỉ hay cách cư xử thiếu lịch sự, vô tâm, vô ý, khiến người khác có thể đánh giá mình là “con gái mà không có ý tứ”. Ngoài ra, chính sự tế nhị, biết cư xử đúng mực trong mọi trường hợp cũng giúp người con gái trở nên “có duyên” hơn…

Trong quan hệ với bạn trai, người con gái nên có thái độ tự nhiên, vui vẻ, không cần “điệu bộ” quá, nhưng cũng không nên tỏ ra mạnh dạn quá mức. Sự e ấp, dịu dàng mang vẻ nữ tính của người con gái cũng có sức hấp dẫn đối với bạn trai như là sự mau mắn, lịch thiệp. Ngoài ra, thái độ hăng say trong công việc, đức tính vị tha, nhân ái, luôn quan tâm giúp đỡ mọi người cũng tạo nên nét duyên hấp dẫn người khác

 

phái. Cần tránh nhất là thái độ hay ganh tỵ, hay chỉ trích, nói xấu người khác, điều đó sẽ làm giảm đi rất nhiều nét duyên của người con gái.

Cuối cùng, nên nói đến một yếu tố khác cũng rất quan trọng đối với cái duyên: đó là sự đoan trang. Nếu một người con gái nào đó cứ “làm duyên làm dáng” với nhiều người cùng một lúc, với mục đích làm cho nhiều người “chết mê, chết mệt vì mình”, thì người ta gọi đó là “sự lẳng lơ”. Người con gái đoan trang phải biết đối đãi với mọi người bằng sự lịch sự, duyên dáng bình thường và dành cái “duyên đặc biệt” chỉ cho một người duy nhất, như vậy, sẽ được mọi người xung quanh cảm mến và chính cái duyên ấy mới đem đến cho mình hạnh phúc.

Tuổi 20 – tuổi trưởng thành – lứa tuổi đang đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân. Tình yêu và hôn nhân là một trong những vấn đề ảnh hưởng đến mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà đa số những người ở lứa tuổi này háo hức, mong đợi. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số ít người (nhất là

 

con gái) mang tâm trạng ngược lại. Một số trường hợp vấp ngã của bạn bè hoặc người đi trước, sự đổ vỡ tình cảm của người lớn, những sự kiện ly thân, ly dị thấy ở xung quanh hay đọc trên sách báo hàng ngày… đã có ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của họ, từ đó dẫn đến cảm giác “ái ngại”, thậm chí “sợ hãi” đối với vấn đề tình yêu và hôn nhân. Đó là một cảm giác không đúng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn đất nước đang đổi mới hiện nay, cuộc sống trở nên đa dạng hơn, với những mối quan hệ xã hội phong phú hơn và cũng phức tạp hơn. Do đó, trước khi bước vào hôn nhân, cần xây dựng cho mình một tình yêu chân chính, để làm cơ sở cho một gia đình hạnh phúc sau này .

Tình yêu chân chính ở đây được hiểu là: Đức tính giản dị và lòng chung thủy cộng với cái cần thiết vốn có của tình bạn, đó là sự chân thành và lòng khoan dung.

-       Giản dị tức là không đòi hỏi nhiều. Trong giai đoạn tình yêu, sự tiếp xúc tìm hiểu là rất quan trọng.

 

Càng hiểu rõ nhau càng tốt, cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt của nhau. Nhưng ngay cả trong giai đoạn này, cũng không thể đòi hỏi “đối tượng” hoàn toàn hòa hợp với mình và có đủ những điều kiện, tiêu chuẩn như mong ước của mình. Nói chung, chỉ cần một số đức tính cơ bản như: đứng đắn, vị tha, cần, kiệm, ôn hoà, độ lượng và biết phục thiện.

Trong giai đoạn hôn nhân, giản dị là biết nhìn thẳng vào điều khiện, hoàn cảnh thực tế của hai người, cùng chung chịu với nhau những lúc khó khăn cũng như khi thuận lợi, vui vẻ chấp nhận hiện tại để cùng nhau phấn đấu vươn lên. Không đứng núi này trông núi nọ, không đòi hỏi những điều quá khả năng của người bạn đời, mà biết tìm những hạnh phúc nhỏ quanh mình, trong quan hệ nghĩa tình với gia đình, với bạn bè và tập thể. Sự giản dị trong tình yêu và hôn nhân rất quan trọng và là nguồn gốc của lòng chung thủy. Nếu không có đức tính giản dị thì con người ấy khó có được lòng chung thủy. Khi đã đi đến hôn nhân cũng cần biết chấp nhận người bạn đời đã lựa chọn

 

trên cả mặt tốt lẫn mặt xấu, đó chính là biểu hiện cụ thể của lòng chung thủy.

-       Chung thủy vừa là một đức tính, vừa là một trách nhiệm: Trách nhiệm trước hết đối với lương tâm của mỗi người (vì mình đã lựa chọn); trách nhiệm đối với nhau trước xã hội (cùng nhau đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện) và trách nhiệm đối với con cái, vì con cái cần được nuôi dưỡng trong một bầu không khí gia đình đầm ấm, hiểu biết và nhường nhịn nhau. Nên nhìn cho ra và biết quý trọng, biết vui với cái hay, cái đẹp của người bạn đời và không nên có thái độ cứng rắn đối với những khuyết điểm của người ấy.

Đòi hỏi một người bạn đời lý tưởng trong hôn nhân không quan trọng bằng chính mình phải là một người lý tưởng trước đã. Hãy bỏ qua (hãy nhẹ nhàng nhắc nhau) về những thiếu sót nhỏ trong cuộc sống chung.

Trong thực tế, ít có con người hoàn toàn tốt đẹp về mọi mặt và chỉ có thể vun đắp, xây dựng cho nhau

 

bằng thái độ nhẹ nhàng, khoan dung, dùng lời nhắc, lời khen và động viên thay cho lời chê bai và chỉ trích thì mới có khả năng thu phục nhân tâm, giúp bạn đời của mình ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.

Về phần người có khuyết điểm, cũng đừng vì suy nghĩ “ Con người hễ còn sống thì có khuyết điểm” – điều đó là lẽ đương nhiên – nhưng cũng đừng vì thế mà cứ giữ mãi những khuyết điểm của mình. Điều nào có thể khắc phục được thì cố gắng khắc phục, sửa đổi vì hạnh phúc chung.

Như thế, quá trình tìm hiểu nhau trong giai đoạn tình yêu cũng là quá trình tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau về những đức tính, phẩm chất cần có trong hôn nhân, về bổn phận và trách nhiệm của mỗi người trong cuộc sống chung sắp đến.

Bất cứ ai đang đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, nếu có một sự chuẩn bị đầy đủ về mặt tinh thần (và tất nhiên không thể thiếu được một sự chuẩn bị tối thiểu về vật chất), tin vào khả năng của mình, của bạn đời

 

và có một tình yêu chân chính, thì có thể bước vào hôn nhân với tâm trạng vững vàng để cùng nhau xây đắp hạnh phúc gia đình bền vững.


 

 

HIỂU BIẾT CUỘC SỐNG

Chúng ta, ai cũng cần phải hiểu biết cuộc sống, khẳng định hạnh phúc được sống làm người trên thế gian này. Nhà thiên tài C.Mác đã khẳng định rằng:      “Không một ai trên trái đất này có thể hiểu biết được tất cả”. Đó cũng là một đặc tính hết sức tự nhiên của con người. Vì những kiến thức nhân loại tích lũy được là vô hạn, còn khả năng tiếp thu được của mỗi người chỉ có hạn. Khả năng ấy khác nhau ở mỗi người, nhưng không có ai thực sự hiểu biết được tất cả.

Vì vậy, nếu thấy có điều gì mình không biết thì đừng ngạc nhiên, hoặc tìm cách che giấu, phủ nhận. Trái lại, ai thành thật thú nhận điều đó thì sẽ được mọi người tôn trọng. Nếu chúng ta được làm việc với những người có thể thổ lộ một cách chân thành, cởi mở những điều “tôi không biết” thì dễ chịu biết bao so với phải làm việc với những người lúc nào cũng  huênh hoang nói về những điều mình chẳng hiểu biết gì…

 

Con người còn có một đặc tính quan trọng nữa: – biết hiểu người khác. Mỗi người đều có ý thích, thói quen riêng. Không thể nào khác được, vì người ta chẳng ai giống ai và đều có những đặc điểm cá nhân.

Có lẽ cuộc sống sẽ hết sức buồn tẻ, đơn điệu nếu như bỗng nhiên tất cả mọi người đều suy nghĩ hoàn toàn giống nhau, cùng thích, cùng ghét một vật gì như nhau. Khi đó con người đã biến thành những cái máy không hồn vì đã mất đi một tính chất quan trọng của con người là tính chất cá biệt, độc đáo. Nếu mình không thích mặc đẹp thì không nên lên án người rất coi trọng việc đó. Hoặc mình mê bóng đá thì không nên chê bai người nào không thích nó. Không thể đem ý thích và thói quen của mình bắt người khác phải theo; ngược lại, cần phải tôn trọng ý thích và thói quen của người khác.

Hiểu và thông cảm với tâm trạng của người khác đó là một phẩm chất hết sức tốt đẹp của con người. Đây cũng là phẩm chất của những người tốt và có tâm

 

hồn nhiệt thành. Vì vậy, những người đó bao giờ cũng có nhiều bạn tốt.

Nhưng nếu sai lầm đã xảy ra? Chế giễu người mắc sai lầm chăng? Nói xấu người đó chăng? Làm như vậy là tàn ác, vô nhân đạo, chỉ có cách tốt nhất là giúp người đó hiểu biết và sửa chữa sai lầm của mình.

Biết hoài nghi là tinh thần khoa học cần thiết. Nhưng “chủ nghĩa hoài nghi” lại là điều nên tránh. Kẻ theo chủ nghĩa hoài nghi bao giờ cũng nói “Tôi không tin” và chấm hết ở đó. Còn người biết hoài nghi, vì muốn khám phá ra chân lý, lại nói khác: “ Tôi không tin, vì…” rồi giải thích tại sao mình không tin. Họ cố gắng tìm ra chỗ sai lầm và đồng thời cũng tìm cách sửa lại cho đúng. Đấy là một con người có óc khoa học thật sự.

Vô cớ giễu cợt công trình của người khác, nhạo báng một tư tưởng lớn, đả phá một ý kiến không phải của mình, điều đó chẳng cần phải có trí thông minh sắc sảo, trí thức sâu rộng hay tinh thần dũng cảm. Hoài nghi người khác một cách vô căn cứ, không có bằng chứng thì đó không phải là cảnh giác mà là đa nghi vô trách nhiệm.

Hạnh phúc nằm ở cuối con đường  phấn đấu và ở cả trên mỗi chặng đường phấn đấu của chúng ta. Tất cả những ai có mục đích phấn đấu đúng đắn, có nghị lực chiến thắng bản thân mình, đi lên bằng chính sức mình, có nhận thức hiểu biết cuộc sống và quyết tâm phấn đấu, kiên trì rèn luyện, nhất định sẽ có tương lai và cuộc sống tràn đầy hạnh phúc.

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 10 2013

Xin chân thành cám ơn những ai đã tình cờ hay chủ ý đọc được những điều hướng thiện được chọn lọc khá  cẩn trọng trong Cuộc sống – Tình yêu và Hạnh phúc.

Những tứ thơ, áng văn, ca dao tục ngữ - những lời hay ý đẹp gợi mở, hướng con người tới Chân - Thiện - Mỹ, góp phần định hướng nhân cách để cùng xã hội phát triển ngày càng hoàn hảo và tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là một việc làm thiết thực “Trồng chăm cây Đức để được hưởng quả Phúc” mà các bậc tiền nhân hằng mong muốn.

                                                               Nguyễn Sơn

 

 

Báo Mới Online - Tin tức nổi bật